ÔNG THỦ TƯỚNG KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG BẠO LỰC

ÔNG THỦ TƯỚNG KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG BẠO LỰC
00:57 12 thg 10 2012Công khai2 Lượt xem 0

Nguồn: Ba Sàm – Posted by basamnews on 11/10/2012 (TL số 1301)
(Bài này có bị xem là “phản động” không? Không cần biết! Chỉ thấy rằng nó được viết trong xúc cảm, có tâm, có sự hiểu biết, thẳng thắn và có đối chiếu thông tin. Bài này cần cho sự tham khảo, sự kiểm chứng và góc nhìn thông tin; thậm chí còn như một bài học của lịch sử… Mặc dù không biết tác giả là ai nhưng tôi đọc bài này thấy cần thiết lưu trữ để tham khảo!)
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
11-10-2012

Câu nói đầu tiên, ngay trong giây phút trang nghiêm, trọng đại nhận chức trách người đứng đầu Chính phủ, giây phút được ghi vào lịch sử mở ra triều đại một Chính phủ mới, câu nói trong giây phút lịch sử không thể lãng quên đó của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là: Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu không chống được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay.

Việc làm đầu tiên của ông Thủ tướng chống tham nhũng bằng ngôn từ hùng hồn là: Giải tán ngay Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nơi hội tụ những chuyên gia, những trí tuệ thông thái hàng đầu của đất nước về quản lí kinh tế và quản lí Nhà nước được hai Thủ tướng đàn anh của ông Dũng là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải thành lập, tin dùng và kính trọng, coi Ban Nghiên cứu của Thủ tướng như trí tuệ, như túi khôn của nhân dân, của đất nước giúp họ đường đi nước bước và tầm nhìn trong điều hành hoạt động kinh tế và quản lí xã hội.

1. LỜI NÓI: DỐI TRÁ

Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tham nhũng ở Việt Nam chỉ rải rác, đột xuất và những vụ tham nhũng lớn cũng chỉ vài chục tỉ đồng như vụ đình đám Lã Thị Kim Oanh gây thiệt hại cho Nhà nước 34 tỉ đồng, tham nhũng vài triệu đô la như vụ chấn động PMU18, tham nhũng vài nền nhà ở, mỗi nền nhà chỉ trên dưới một trăm mét vuông đất như vụ ồn ào tư túi đất tái định cư ở Đồ Sơn, Hải Phòng… Chỉ vậy thôi cũng làm cả xã hội kinh hoàng, sửng sốt, đau xót, nhức nhối, phẫn nộ và xao xác, vơi hụt lòng tin vào chính quyền. Vì tham nhũng từ chính quyền mà ra, phải có quyền lực mới có thể tham nhũng.

Đến thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, như được bật đèn xanh, tham nhũng nhất tề, đồng loạt, rầm rộ nổi lên khắp nơi như mầm cỏ dại gặp hơi ấm mùa xuân. Các quan tham từ cấp phường, xã đến cấp Trung ương, Chính phủ đồng khởi ra tay vơ vét, ngang nhiên lộ mặt tham nhũng. Tham nhũng trở thành bình thường đến mức chỉ cấp thấp, tham nhũng vặt không đủ ăn chia cho nhiều người nên thân cô thế yếu mới phải thậm thụt, dấm dúi chiếm đoạt vài chục triệu đồng tiền trợ cấp bão lụt, trợ cấp xóa đói giảm nghèo, tiền chế độ chính sách thương binh, liệt sĩ, chỉ gây thiệt hại cho vài cá nhân. Cấp thấp, tham nhũng vặt, thân cô thế yếu, bị người dân tố cáo, tham nhũng nhanh chóng bị phanh phui và trừng trị đích đáng. Cấp cao, tham nhũng lớn, ăn chia đều khắp và quyền uy bao trùm thì thản nhiên vẽ ra những dự án hoành tráng để tham nhũng hàng trăm, hàng ngàn hecta đất như dự án ma thu hồi hàng ngàn hecta đất nông trường sông Hậu ở Cần Thơ, như dự án quỉ thu hồi năm trăm hecta đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Thản nhiên lập ra những tập đoàn kinh tế lớn để tham nhũng hàng chục ngàn tỉ đồng, hàng trăm ngàn tỉ đồng như tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Vinashin, tham nhũng, vơ vét làm thất thoát hơn trăm ngàn tỉ đồng.

Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thiệt hai do tham nhũng gây ra chỉ tính tới triệu đô la, người dân đi khiếu kiện bị quan tham cướp bóc chỉ là những cá thể đơn độc. Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mỗi vụ tham nhũng gây thiệt hại lên đến hàng tỉ đô la, lớn gấp ngàn lần, làm lao đao cả nền kinh tế, dìm đất nước chìm sâu trong nghèo khó, kéo dài cuộc sống khốn khổ, bất an của người dân, làm rối loạn cả xã hội, gây đau khổ, oan khiên cho hàng ngàn, hàng chục ngàn người dân. Dân oan bị quan tham cướp đất lũ lượt từng đoàn hàng trăm người giương cờ, căng banner, giơ cao bảng chữ, đội đơn đi khiếu kiện, tố cáo tham nhũng.

Cả hệ thống quyền lực Nhà nước làm ngơ trước nỗi đau khổ, oan khiên của chúng sinh, làm ngơ trước cường quyền tham nhũng. Tham nhũng ung dung tồn tại và phát triển. Quan tham vẫn bình thản, vững vàng trên ghế quyền lực chăn dân, vẫn cao giọng bảo ban dạy dỗ dân, vẫn hà khắc đe nẹt, cấm đoán, tước đoạt mọi quyền của người dân, đàn áp, bắt bớ dân oan đi khiếu kiện và vẫn nỏ mồm hô hào, chỉ đạo học tập, lên lớp giảng dạy đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra hình mẫu, khuôn thước của một xã hội tham lam và dối trá. Cả một hệ thống quyền lực tham lam và dối trá. Quan tham tồn tại bằng dối trá. Chính quyền cũng tồn tại bằng dối trá!

Tham nhũng tiền bạc. Tham nhũng đất đai. Tham nhũng cả quyền lực. Trong các loại tham nhũng đó thì tham nhũng quyền lực là nguy hại lớn nhất, di họa lâu dài nhất. Lịch sử gần bảy mươi năm cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có thời nào những người lãnh đạo cấp cao của đảng lại ngang nhiên giành những chiếc ghế quyền lực lớn về chính trị, quyền lực lớn về kinh tế cho con cháu, người thân của họ như thời ông Nguyễn Tấn Dũng là lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng sản, là người đứng đầu Chính phủ.

Trong mùa đại hội đảng bộ cơ sở tiến tới đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11, con trai cả của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được đề cử vào thành ủy thành phố Sài Gòn nhưng số phiếu bầu cho cậu ấm nhà Thủ tướng Dũng thấp thảm hại. Bốn trăm người cầm phiếu bầu, chỉ có mười lăm người để lại tên cậu ấm của Thủ tướng Dũng trong phiếu, còn ba trăm tám mươi nhăm người thẳng thừng xóa tên cậu ấm. Nhưng chỉ ba tháng sau, đến đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11, người không đủ tín nhiệm vào ban Chấp hành đảng bộ cấp địa phương, nơi ông ta sống và làm việc, nơi tổ chức đảng gần gũi, hiểu về ông ta đầy đủ nhất, lại ung dung chiếm được ghế ban Chấp hành trung ương, tạo thế cho ông ta bước một bước từ phó hiệu trưởng một trường đại học ở Sài Gòn lên chức Thứ trưởng một bộ mạnh của cả nước, thuộc hàng ngũ thành viên của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Không vào được ban Chấp hành đảng địa phương lại vào được ban Chấp hành đảng trung ương vì nhiều lãnh đạo hàng đầu của đảng cũng muốn kiếm chiếc ghế ban Chấp hành trung ương đảng đầy lợi lộc và quyền uy cho con cái họ làm bệ phóng vào hàng ngũ quan chức cao cấp Nhà nước chỉ để con cái họ vinh thân phì gia.

Ông Tổng bí thư họ Nông quê tít trên rừng sâu Na Rì, Bắc Cạn, đại hội 10 khóa trước đã đôn đáo đưa con trai vào cơ quan quyền lực Trung ương mà không thành, đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11 là cơ hội cuối cùng, ông phải làm được việc còn dang dở đó. Phải làm được việc là nỗi bận tâm lớn nhất của ông ở cương vị Tổng bí thư, ông mới thanh thản rời chính trường về an nghỉ tuổi già. Ông ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đầy quyền lực trước khi nghỉ hưu cũng muốn để lại hương hỏa cho con chiếc ghế quyền lực của đảng. Các ông liền vất bỏ lợi ích của đảng, vất bỏ mục tiêu, lí tưởng và cả thanh danh của đảng để nhân nhượng, thỏa hiệp, ủng hộ nhau giành chiếc ghế quyền lực cho con cái. Tổng bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thủ tướng Chính phủ, những quyền uy lớn đó đều có ơn nghĩa với nhiều vị trí khác trong cơ quan lãnh đạo cấp cao nắm quyền quyết định mọi vấn đề của đảng. Những quyền uy lớn đó đã thỏa hiệp, ủng hộ nhau chiếm ghế quyền lực của đảng cho con cái thì việc bỏ phiếu chỉ còn là thủ tục!

Nhìn ba ông Ủy viên Bộ Chính trị, hai ông chờ nghỉ hưu còn đưa được những đứa con ở cấp tỉnh, cấp huyện vào cơ quan quyền lực cấp trung ương của đảng, ông Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, lại đương chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nơi quản lí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cao, nơi phân chia quyền lực thượng đỉnh trong đảng, liền đưa cô con gái mới tốt nghiệp trường báo chí, chưa có đóng góp gì, chưa được trải nghiệm, chưa được thử thách trong cuộc đời, không biết gì về kinh tế, càng không biết những qui luật khách quan và nghiệt ngã của kinh tế và mới hai mươi ba tuổi đời ngơ ngác, nhảy tót lên chiếc ghế quyền lực lớn về kinh tế, đứng đầu một đơn vị kinh tế Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực của kĩ thuật: xây dựng công nghiệp, doanh thu hàng năm cả ngàn tỉ đồng.

Đất nước không thiếu những người được đào tạo bài bản chuyên sâu về khoa học kĩ thuật, giỏi kinh doanh và có tài quản lí kinh tế. Chiếc ghế mà cô con gái hai mươi ba tuổi của ông ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương nhảy tót lên chiếm giữ là chiếc ghế của những người có khoa học kĩ thuật và giỏi quản lí đó. Mặc dù sau hai tháng sỗ sàng ngồi trên chiếc ghế cao của đơn vị kinh tế Nhà nước, cô con gái ông ủy viên Bộ Chính trị đã phải rời ghế nhưng việc chiếm giữ chiếc ghế đó, dù chỉ hai tháng, cùng với việc các ông quyền cao chức trọng khác trong đảng cầm quyền bất chấp những ngang trái và hậu quả tệ hại, giành chiếc ghế quyền lực cho con cái họ đã cho thấy những người được dân cho hưởng ơn cao, lộc lớn để họ chăm lo cho dân, tận tụy với nước nhưng họ chỉ biết bản thân họ và con cái họ, họ chẳng còn biết đến nhân dân, đất nước. Sự việc họ giành bằng được chiếc ghế quyền lực cho con cái họ phải được gọi đúng tên là tham nhũng, tham nhũng quyền lực.

Cả những quan chức hàng đầu của một thể chế, một hệ thống quyền lực Nhà nước cũng thản nhiên tham nhũng, cả ông Thủ tướng Chính phủ hùng hồn tuyên bố chống tham nhũng cũng đi đầu đôn đáo, hăm hở, mê mải tham nhũng, nêu tấm gương lớn cho cả hệ thống quyền lực tham nhũng, tạo ra cả cơn lốc xoáy tham nhũng, tạo ra một thời bạo liệt tham nhũng thì còn chống tham nhũng nỗi gì?

Trên thượng đỉnh đã ngang nhiên tư lợi, vô cảm và vô lương tâm với dân với nước như vậy, bên dưới tội gì phải giữ mình, giữ lương tâm. Doanh nghiệp thuộc tập đoàn kinh tế Nhà nước trúng thầu một dự án chỉ trên 32 tỉ đồng liền mua ngay hai ô tô mà giá một chiếc ô tô đã trên 2,6 tỉ đồng tặng quan chức Nhà nước đứng đầu tập đoàn chủ dự án. Người được tặng không thiếu ô tô sang trọng và tiền mua ô tô quà tặng không phải là tiền túi của bất cứ ai mà chính là tiền của dân đầu tư cho dự án. Dự án chỉ 32 tỉ đồng đã bị rút ra hơn 4 tỉ đồng mua ô tô tặng nhau. Rồi còn bao nhiêu tỉ đồng rút ra chia nhau từ 32 tỉ đồng của dự án? Phung phí đồng tiền chắt chiu của dân như vậy chính là một dạng tham nhũng. Ngang nhiên tặng nhau quà biếu tham nhũng. Cả người cho và người nhận đều vô cảm, vô lương tâm với đồng tiền chắt chiu của dân, đều nhởn nhơ, vô cảm hưởng thụ cuộc sống giầu sang, thừa thãi trên đất nước xác xơ, trên cuộc sống lam lũ, thiếu thốn, đói khổ của người dân!

Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ nhưng lương quan chức doanh nghiệp Nhà nước cứ ngất ngưởng cả trăm triệu đồng tháng, cao gấp vài chục lần lương bác sĩ sớm khuya miệt mài làm việc trong bệnh viện, cao gấp vài chục lần lương của những trí tuệ giảng dạy đại học. Đồng lương đó không phải do họ tài giỏi làm ra mà là tài sản quốc gia, là vốn liếng của doanh nghiệp, vốn liếng của Nhà nước, vốn liếng của nhân dân. Đó là đồng lương tham nhũng. Quan chức các doanh nghiệp Nhà nước đều thản nhiên và vênh váo nhận đồng lương tham nhũng đó dù doanh nghiệp họ điều hành thua lỗ nặng nề, triền miên.

Tham nhũng quyền lực, tham nhũng của cải làm cho hết Vinashin đến Vinalines, rồi Điện lực, Dầu khí, Than – Khoáng sản . . . những tập đoàn kinh tế được đầu tư lớn, được ưu đãi đặc biệt, là trụ cột của ngôi nhà kinh tế đất nước đều thua lỗ, thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng, ngôi nhà kinh tế đất nước xác xơ, trống rỗng. Trống rỗng cả nền tài chính đất nước. Trống rỗng cả lòng tin của người dân vào chính quyền.

Một Chính phủ ngập trong tham nhũng và người đứng đầu Chính phủ đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị nhấn chìm trong tham nhũng. Danh dự và uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chìm nghỉm, mất hút trong tham nhũng nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không thực hiện lời hứa trang nghiêm, lời hứa danh dự trong giây phút lịch sử trước Quốc hội, trước nhân dân: không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay.

Lời hứa của danh dự, lời hứa của lịch sử cũng không thực hiện thì liêm sỉ đâu còn nữa. Liêm sỉ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chìm nghỉm, mất hút trong tham nhũng. Lời hứa của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành lừa dối với nhân dân, dối trá với lịch sử! Sự dối trá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu tấm gương cho xã hội. Cả xã hội dối trá. Dối trá là lẽ sống. Dối trá được coi trọng. Dối trá lên ngôi thì sự trung thực không còn đất sống.

Điều tốt gọi điều tốt. Cấp trên là khuôn thước của cấp dưới. Quan chức Nhà nước là khuôn thước của xã hội. Công chức Nhà nước nhìn tấm gương liêm khiết của nhau cùng giữ mình vượt lên trên cám dỗ vật chất bất lương, cùng cúc cung, tận tụy làm công bộc của dân, lo cho dân, để lại công trạng, để lại sự nghiệp rạng rỡ cho nước. Đó là thời thịnh. Cái xấu gọi cái xấu. Quan chức rường cột của Nhà nước đua nhau, hùa nhau làm điều xấu, vơ vét của nước, cướp đoạt lợi ích của dân, làm lên một thời xấu xa, tồi tệ, đen tối, để lại vết nhơ muôn đời trong lịch sử. Đó là thời suy.

Ngoài triệu chứng quan tham đua nhau vơ vét của nước, cướp bóc của dân, đàn áp, tù đày, đánh giết dân, thời suy còn một triệu chứng điển hình nữa là quan tham đã gây quá nhiều tội với nước, mắc quá nhiều nợ với dân liền vội vã lấy tiền của nước, lấy mồ hôi và cả máu của dân xây những đền đài thờ tổ tiên, cúng thần phật, cầu xin thần phật dung tha xá tội, cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì giữ mãi được ghế quan tham, cứ bền bỉ nhiều đời yên vị ăn trên ngồi trốc vơ vét và cướp bóc. Thời nhà Lê suy tàn, đầu thế kỉ XVI, vua Lê Tương Dực chơi bời xa xỉ, trụy lạc vô độ, đặt ra nhiều sắc thuế bóc lột dân, nhiều hình phạt độc ác đánh giết dân, giết cả 15 thân vương trong triều. Trước tội ác quá lớn, Lê Tương Dực liền sai kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài nguy nga cầu xin thần linh che chở.

Ngày nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xây nhà thờ họ ở Rách Giá, Kiên Giang, lớn gấp trăm lần đền thờ Anh hùng Nguyễn Trung Trực cách đó vài bước chân, lớp lớp tòa ngang dãy dọc như cung vua nhà Nguyễn ở cố đô Huế. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng xây nhà thờ họ Nguyễn Sinh trập trùng đền đài hoành tráng trên cả vùng đồi núi mênh mông ở Nam Đàn, Nghệ An. Đó là những Cửu Trùng Đài của triều Cộng sản Việt Nam đầu thế kỉ XXI.

Những Cửu Trùng Đài xây bằng tiền bạc và của cải thừa thãi, xây cả bằng sự vênh váo, hợm hĩnh của quyền uy tưởng sẽ bền vững ngàn niên, vạn niên nhưng những Cửu Trùng Đài xây trên sự tan hoang, kiệt quệ của đất nước, xây trên sự điêu linh, lầm than của trăm họ, xây trên sự căm giận, phẫn nộ của người dân thì chỉ là những lâu đài xây trên cát. Những Cửu Trùng Đài vạn niên đó chẳng bao lâu sau chỉ còn bóng dáng trong câu ca dao mỉa mai của dân gian: Vạn niên là vạn niên nào / Thành xây xương lính, hào đào máu dân. Người dân nhìn những Cửu Trùng Đài nguy nga chỉ thấy ở đó chất ngất của cải tham nhũng, chỉ thấy ở đó biểu tượng của một thể chế, một triều đại đang xa dân diệu vợi, đang lao nhanh vào suy vong không gì cứu vãn!

Thời thịnh hay suy là do chính những người nắm vận mệnh đất nước, nắm thời cuộc quyết định. Quan chức của Đảng, quan chức Nhà nước từ trên xuống dưới đều suy đốn, tham nhũng và dối trá đến như vậy, thời suy của Đảng cầm quyền, thời suy của nước đã là hiển nhiên. Và ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã góp phần rất lớn, phần chủ yếu làm nên thời suy đó cho Đảng cầm quyền, cho Nhà nước Cộng sản Việt Nam, để lại vết hằn đau buồn, đen tối trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Dối trá lem lẻm. Tham nhũng hết vụ này đến vụ khác. Tham nhũng dây chuyền trong cả hệ thống quyền lực Nhà nước. Kinh tế đổ vỡ. Xã hội rối loạn, bất an. Ở xã hội dân chủ với Nhà nước của dân chứ không phải Nhà nước của Đảng, chỉ cần một vụ việc trong những vụ việc tày đình trên, ông Thủ tướng đã phải tự từ chức. Ông Thủ tướng thiếu lòng tự trọng, không từ chức, Quốc hội thực sự của dân cũng bỏ phiếu phế truất ông. Nhưng ở ta, Nhà nước là của Đảng, Chính phủ của Đảng, Quốc hội cũng của Đảng. Các quan chức Nhà nước tham nhũng đều là những nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng, là những thế lực lớn trong Đảng. Người dân bị tham nhũng cướp đoạt những lợi ích sống còn chỉ còn biết khoanh tay trông chờ Đảng cầm quyền đóng cửa dàn xếp với tham nhũng trong nội bộ Đảng. Những quyền công dân cơ bản để người dân tự vệ trước cường quyền, tham nhũng và bất công, người dân Việt Nam cũng không có!

2. VIỆC LÀM: KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG BẠO LỰC

Văn hóa bậc thấp, bậc phổ thông cơ sở, ai cũng học được. Nhưng văn hóa bậc cao, bậc trí tuệ quí hiếm thì không phải ai cũng có thể tiếp nhận. Phải có tâm thức văn hóa mới hướng tới trí tuệ, mới tiếp nhận được trí tuệ. Chỉ những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết quí trọng trí tuệ. Hai Thủ tướng lớp trước ông Dũng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải đều biết quí trọng trí tuệ, biết sử dụng trí tuệ.

Nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) tháng tám, năm 1991, ông Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt không có một bằng cấp, một chứng chỉ văn hóa nhưng phải là người có tâm thức văn hóa ông mới nói được với lớp trẻ Sài Gòn trong đại hội Đoàn của họ rằng: Thành phố soi thấy tương lai của mình rất sáng trên vầng trán các em. Tâm thức văn hóa đó đã trân trọng mời những trí tuệ hàng đầu của đất nước về khoa học kinh tế và khoa học quản lí Nhà nước vào Tổ Chuyên gia tư vấn về cải cách Kinh tế và cải cách Hành chính mà ngôn ngữ hằng ngày vẫn gọi là Tổ Tư vấn cải cách. Cả những chuyên gia kinh tế hàng đầu của chính quyền Sài Gòn cũ cũng được tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt trực tiếp mời vào Tổ Tư vấn cải cách.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt nêu những vấn đề của đường lối, chính sách kinh tế, xã hội đặt ra với Tổ Tư vấn cải cách và công việc đối nội, đối ngoại của người đứng đầu Chính phủ dù bận đến đâu, hằng tuần tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt vẫn giành thời gian chân tình gặp gỡ, lắng nghe, tiếp nhận đề xuất giải pháp của Tổ Tư vấn cải cách.

Thành lập năm 1993, đến năm 1996 Tổ Tư vấn cải cách được bổ xung thêm những trí tuệ xuất sắc mới nổi lên và được nâng cấp lên thành Tổ Nghiên cứu đổi mới Kinh tế, Xã hội và Hành chính với tên gọi nôm na thường ngày là Tổ Nghiên cứu đổi mới. Đến năm 1998, Tổ Nghiên cứu đổi mới lại được Thủ tướng Phan Văn Khải nâng cấp lên thành Ban Nghiên cứu của Thủ tướng. Tổ chức tập hợp những trí tuệ, những lõi sáng của đất nước được khai thác, sử dụng hiệu quả mới được hai người đứng đầu Chính phủ Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng và liên tiếp nâng cấp lên như vậy.

Tổ chức tập hợp những trí tuệ của đất nước được hai tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng như vậy nhưng ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế Thủ tướng thì tổ chức tập hợp trí tuệ đó liền bị xóa sổ ngay. Chỉ những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết quí trong trí tuệ và làm theo trí tuệ. Giải tán Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liền mời một viên tướng công an có nhiều thành tích đàn áp dân chủ, nhân quyền làm đặc phái viên bên cạnh Thủ tướng, tư vấn cho Thủ tướng.

Trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới từ xưa đến nay, ngay cả trong thời khốc liệt chiến tranh và đầy biến động chính trị, ngay cả với những nhà độc tài khét tiếng như Adolf Hitler, Iosif Stalin, Nicolae Ceausescu, Mobutu, chưa có người đứng đầu Chính phủ nào phải dùng một viên tướng công an làm cố vấn thân cận, một công cụ bạo lực luôn bên cạnh trong công việc như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Luật pháp Việt Nam cũng không có một điều khoản nào cho phép ông Thủ tướng được có cố vấn an ninh. Cố vấn thân cận nhất là viên tướng công an, điều đó cho thấy Thủ tướng Dũng coi trọng công cụ bạo lực như thế nào và công cụ bạo lực đó chính là tâm thức văn hóa của ông Thủ tướng. Thay những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng bằng một viên tướng công an, một bạo lực Nhà nước, đất nước bị dẫn dắt vào con đường bạo lực, đời sống dân sự bị công an hóa, bạo lực hóa!

Bị những nhóm lợi ích dẫn dắt, đất nước đã chìm trong những tai họa của tham nhũng. Không có trí tuệ dẫn dắt, đất nước lại chìm trong những tai họa đổ vỡ kinh tế. Khinh trí tuệ, trọng bạo lực, bên cạnh Thủ tướng là viên tướng công an hằm hè nhìn xã hội dân sự qua lỗ tròn của chiếc còng số tám, đất nước lại chìm trong bạo lực Nhà nước và ngột ngạt tăm tối trong những lệnh cấm, những lệnh giới nghiêm trong đời sống tinh thần, văn hóa!

Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đã bị giải tán. Nơi những trí tuệ được nói thẳng, nói thật, được đóng góp không còn nữa. Những trí tuệ đích thực thôi đành về với dân gian. Những viện khoa học nọ, viện khoa học kia thì nhiều lắm, bộ nào, ngành nào cũng có những viện khoa học sang trọng, hoành tráng, mĩ miều với đông đảo viện sĩ lấp lánh học hàm, học vị nhưng đó chỉ là nơi những người có bằng cấp khoa học chia nhau chức danh, chia nhau ghế ngồi để lĩnh lương và để nghĩ ra những “đề tài khoa học” nhận tiền tỉ mồ hôi nước mắt của dân về chia nhau. Nghiệm thu xong, chia tiền xong, “đề tài khoa học” xếp vào ngăn kéo, lại hăm hở tìm “đề tài khoa học” mới. Các Bộ, các Tổng cục của hệ thống hành chính Nhà nước có viện khoa học thì các Ban của tổ chức Đảng ngang cấp Bộ cũng phải có Viện khoa học. Viện khoa học Dân vận. Viện khoa học lịch sử Đảng. Viện khoa học Mác Lê nin . . .

Những viện khoa học mĩ miều đó nhiều như cây trong công viên, mỗi viện hằng năm ngốn hàng chục, hàng trăm tỉ tiền thuế của dân chỉ để làm dáng thì cứ bền bỉ tồn tại và liên tục phát triển, viện khoa học mẹ đẻ ra viện khoa học con. Đó là những viện khoa học chỉ có danh khoa học, chỉ có học hàm, học vị khoa học mà không có trí tuệ khoa học. Không có trí tuệ khoa học để làm việc nên họ chỉ còn biết mang danh khoa học ra bán. Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng nhưng danh khoa học của họ độc quyền bán cho Đảng của họ và bán cho Nhà nước của Đảng được giá tới bạc tỉ!

Những nhà khoa học chân chính, những trí tuệ đích thực không thể vô cảm và bất lương như vậy. Người thực sự có trí tuệ cần mang trí tuệ đóng góp cho cuộc sống và trí tuệ gọi trí tuệ, lương tâm gọi lương tâm, những trí tuệ và lương tâm đó gọi nhau, tập hợp lại lập lên viện Nghiên cứu Phát triển, IDS. Không nhận một xu từ tiến thuế của dân, trí tuệ đích thực là tài sản quí, là vốn liếng lớn sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho đất nước, tạo ra tiền bạc của cải để phát triển Viện. Nhưng với một ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, vừa nhận chức người đứng đầu Chính phủ, ông Thủ tướng đó liền kí lệnh đuổi những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đi cho khuất mắt thì viện IDS lại là cái gai ông phải dẹp bỏ, ông liền kí quyết định 97/2009QĐ-TTg trong đó có những điều khoản vô hiệu IDS, làm cho IDS không thể hoạt động theo tiêu chí của IDS. IDS liền phải tự giải thể!

Những dự án tham nhũng chiếm hàng trăm, hàng ngàn hecta đất, cướp đất của nhiều làng. Dân nhiều làng phải đội đơn đi khiếu kiện. Hàng trăm gia đình mất đất. Hàng ngàn người bơ vơ. Mỗi gia đình một cảnh ngộ, một nỗi đau. Mỗi người một nỗi oan khiên, không ai có thể đại diện cho ai. Dân đen, thân phận con ong cái kiến, từng tiếng kêu rời rạc, yếu ớt, lạc lõng không ai đoái hoài. Hàng trăm, hàng ngàn người cùng kêu nỗi oan khiên dậy đất của một thời đầy ngang trái oan khiên mới mong động đến cửa quan thì ông Thủ tướng hùng hồn chống tham nhũng bằng ngôn từ lại mau lẹ đứng về phía quan tham lạnh lùng kí Nghị định 136/2006 cấm dân khiếu kiện tập thể!

Cách mạng công nghiệp chấm dứt nếp sống bầy đàn, không có cá nhân của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, cho người dân bình thường ý thức về cá nhân trong cuộc đời. Cách mạng dân chủ tư sản cho người dân quyền con người. Không có cách mạng công nghiệp, chưa có cách mạng dân chủ tư sản, xã hội Việt Nam nôn nóng, hối hả bước vào công nghiệp hóa với những con người vẫn mang tâm lí, nếp sống và thói quen của nền sản xuất nông nghiêp thô sơ, tâm lí, nếp sống an phận và cam chịu. Dù an phận và cam chịu nhưng con giun xéo mãi cũng quằn, những nông dân không còn ruộng đất trở thành công nhân trong những nhà máy của những ông bà chủ tư bản phần lớn là người nước ngoài. Bị chủ tư bản bóc lột tàn tệ, những công nhân không còn cam chịu được nữa phải bảo nhau, gọi nhau tổ chức đình công đòi quyền sống.

Công nghiệp hóa không phải chỉ là máy móc công nghệ, thiết bị kĩ thuật. Công nghiệp hóa trước hết phải là con người, là giải phóng con người, là mối quan hệ công bằng, bình đẳng giữa người với người. Công nghệ kĩ thuật là điều kiện vật chất và giải phóng con người là điều kiện xã hội của công nghiệp hóa. Bước chân công nhân đình công là bước đi tất yếu của xã hội Việt Nam vào công nghiệp hóa, là bước tiến của xã hội Việt Nam.

Những cuộc đình công vừa chính đáng và cần thiết giành quyền sống của người lao động, vừa là sự trưởng thành của xã hội Việt Nam nhưng Thủ tướng Dũng lại sốt xắng đứng ra bảo vệ sự bóc lột tàn nhẫn của những ông chủ, bà chủ tư bản bằng việc kí nghị định 11 và 12/ 2008 cấm công nhân đình công! Cấm công nhân đình công đòi quyền sống, Thủ tướng Dũng đã ngăn chặn bước tiến của xã hội Việt Nam, kìm hãm xã hội Việt Nam mãi mãi dừng lại trong sự bóc lột man rợ của chủ nghĩa tư bản hoang dã.

3. NGƯỜI DÂN BỊ KHINH RẺ. QUYỀN CÔNG DÂN KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN. CUỘC SỐNG BẤT AN. TÍNH MẠNG MONH MANH

Theo tấm gương người đứng đầu Chính phủ, cả hệ thống quyền lực Nhà nước cứ mặc sức tham nhũng và hành dân. Người dân chỉ được cam chịu chấp nhận. Dân có tiếng nói phản kháng với cái sai, cái ác liền có sự trả lời của công an, tòa án và nhà tù! Mọi quyền Con Người cơ bản của người dân đều bị Cấm! Cấm! Và Cấm! Chưa bao giờ pháp luật bị sử dụng tùy tiện với dân, bạo lực Nhà nước khắc nghiệt, tàn nhẫn với dân như thời Thủ tướng Dũng.

Tiến sĩ luật học Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lạm quyền, cho triển khai dự án bô xít Tây Nguyên không theo đúng qui trình pháp luật, gây thiệt hại nặng nề cho dân, rước tai họa, nguy nan cho nước. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là hiện thực bình thường ở mọi nước trên thế giới từ mấy trăm năm nay nhưng ở Nhà nước Việt Nam Cộng sản cho đến tận thế kỉ 21 của văn minh tin học, của thế giới phẳng, vẫn chưa có được điều bình thường đó. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật chỉ là dòng chữ vàng son lấp lánh ghi trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ để làm đẹp, làm sang cho Hiến pháp Việt Nam. Còn trong thực tế xã hội Việt Nam hoàn toàn không có sự bình đẳng nhân văn đó. Đơn kiện ông Thủ tướng của tiến sĩ Vũ hoàn toàn hợp pháp, là tiếng nói chính đáng, khẩn thiết của nhân dân, của đất nước. Hai cấp tòa, cấp thành phố và cấp tối cao, đều từ chối, không dám vào cuộc thụ lí đơn kiện của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nhưng công an thì quyết liệt vào cuộc, rình rập, bám sát người đứng đơn kiện từng bước đi, từng cuộc điện thoại.

Tiến sĩ Vũ đi công việc, vào Sài Gòn, ở khách sạn. Công an liền xông vào khách sạn và trong tay công an có ngay hai bao cao su nhầy nhụa, tạo chứng cớ hồ đồ, vu vơ, áp đặt, bẩn thỉu, thấp hèn, mờ ám và tàn bạo để bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Sự mờ ám, thấp hèn và tàn bạo càng bộc lộ rõ trong phiên tòa xử người nói tiếng nói dõng dạc, đàng hoàng, chính đáng và hợp pháp của nhân dân, của đất nước.

Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội, quyền thảo luận các vấn đề của Nhà nước, quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước. Những bài viết và nói công khai, đàng hoàng về những chính sách sai lầm của Nhà nước, về những việc làm tội lỗi của quan chức Nhà nước của tiến sĩ Vũ là hợp pháp và vô tội. Chỉ có tội khi tòa án chứng minh được người viết và nói không đúng sự thật. Không chứng minh được điều đó, không xét, tòa án chỉ xử, chỉ buộc tội. Áp đặt tội tuyên truyền chống Nhà nước cho những bài viết và lời nói chính đáng, hợp pháp của tiến sĩ Vũ chỉ ra những sai lầm và tội lỗi của Nhà nước, tòa án đã đồng nhất Nhà nước với sai lầm và tội lỗi.

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, phiên tòa công khai mà người dân đến dự tòa thì bị đàn áp, bắt bớ. Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, trong phiên tòa, bị cáo và luật sư đều bị chặn họng, không được tranh tụng. Giữa thời văn minh rực rỡ của loài người, phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ chỉ là sự tái hiện lại cảnh đấu tố man rợ, mông muội thời cải cách ruộng đất. Ngồi ghế quan tòa không còn là sự công minh, nhân đạo của luật pháp và công lí mà là sự nhỏ nhen, ngạo mạn, nhâng nháo, hùng hổ, hằn học hận thù của công cụ bạo lực!

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, hai bao cao su tởm lợm là chứng cứ duy nhất để bắt khẩn cấp tiến sĩ Vũ nhưng đến phiên tòa, quan tòa cũng nhục nhã không dám nhắc đến chứng cứ là hai bao cao su ô nhục. Dù không được đưa ra, không được nhắc đến trong phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo nhưng hai bao cao su nhầy nhụa, ô nhục còn mãi mãi chình ình và bốc mùi tanh tưởi trong lịch sử tư pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản, còn mãi mãi nhầy nhụa và bốc mùi ô uế trong lịch sử cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam.

Dựa vào quyền uy để tham nhũng, dựa vào bạo lực để bưng bít sự thật, để bóp chết những tiếng nói trung thực, những vụ bắt bớ phi pháp, những phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo liên tục diễn ra dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Duy trì đảng cầm quyền đứng trên pháp luật để tham nhũng, bộ máy công cụ công an của Thủ tướng Dũng đối xử với những người yêu nước vô cùng tàn nhẫn, mất tính người. Bắt cóc trái pháp luật, giam cầm phi pháp bà Bùi Thị Minh Hằng, khủng bố tinh thần, hủy hoại thân xác để bịt tiếng nói yêu nước của người đàn bà quả cảm. Nhưng bộ máy công cụ bạo lực của Thủ tướng Dũng càng độc ác, man rợ thì tiếng nói lương tâm của người phụ nữ Việt Nam quả cảm, tiếng của lịch sử Việt Nam càng lay động mạnh mẽ những trái tim Việt Nam, càng vang xa ra thế giới văn minh, tố cáo với thế giới văn minh về một Nhà nước bạo lực, chà đạp luật pháp, chà đạp quyền Con Người.

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo với những tiếng nói trung thực và yêu nước là đặc trưng những phiên tòa thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Những phiên tòa đó sẽ đi vào lịch sử với tên gọi Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng như lịch sử đã ghi nhận những phiên tòa đưa cổ những người Cộng sản vào máy chém theo luật 10/59 dưới thời ông Ngô Đình Diệm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam là Phiên – Tòa – Ngô – Đình – Diệm!

Mức độ mờ ám, thấp hèn và tàn bạo của những Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng càng ngày càng tăng và đỉnh điểm về sự mờ ám, thấp hèn, tàn bạo của Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng là phiên tòa xử ba nhà báo nồng nàn yêu nước và lẫm liệt khí phách đấu tranh đòi tự do, đòi quyền Con Người, nhà báo Nguyễn Văn Hải, nhà báo Tạ Phong Tần, nhà báo, luật sư Phan Thanh Hải.

Ông tướng công an là cố vấn kè kè bên cạnh ông Thủ tướng nên trong xã hội, công an cũng luôn kè kè bên người dân, công an trở thành chủ thể, là bộ mặt, là tiếng nói của chính quyền với người dân và cũng là hung thần, là hiện thân của cái ác trong cuộc sống.

Những trí thức viết Kiến nghị gửi lãnh đạo Nhà nước, những nơi nhận Kiến nghị đều im lặng. Những người lãnh đạo Nhà nước coi dân, coi trí thức như hư vô, như không có, nếu có cũng chỉ là bầy đàn, bầy ong bầy kiến, không đáng trả lời. Lãnh đạo Nhà nước không thèm trả lời Kiến nghị của trí thức nhưng công an thì đến từng nhà người kí Kiến nghị dằn mặt, răn đe.

Công an chặn cửa không cho người dân ra khỏi nhà đi biểu tình chống Đại Hán cướp biển đảo Việt Nam, giết dân lành Việt Nam. Công an chốt chặn suốt đêm ngày, ngày này qua ngày khác quanh nhà người có chính kiến khác biệt với chính quyền, đi đâu một bước công an bám theo một bước. Người có tiếng nói khác biệt với chính thống vẫn là công dân mà bị công an ngang nhiên tước đoạt quyền công dân, trở thành người tù ngay trong nhà mình, là người tù ngay trong cuộc sống đời thường quí giá của cuộc đời. Công an vô cớ xông vào nhà khám xét, bắt người có chính kiến khác biệt vất lên ô tô chở về đồn công an như chở một đồ vật. Công an bắt người dân yêu nước biểu tình chống Đại Hán xâm lược rồi vật ngửa ra, khiêng lên ô tô như khiêng heo cho một công an khác đứng trên bậc cửa ô tô đạp tới tấp vào mặt người dân yêu nước.

Hành xử với dân như vậy là hành xử của đám lưu manh, côn đồ. Và lưu manh, côn đồ thứ thiệt cũng được công an sử dụng như công cụ bạo lực Nhà nước để khủng bố, đàn áp dân. Tự xưng là thương binh xông vào cơ quan Nhà nước hành hung cán bộ Nhà nước, chửi tục và tụt quần ăn vạ giữa cơ quan Nhà nước thì chỉ có lưu manh, côn đồ mới hành xử như vậy. Người dân bình thường cũng đủ tỉnh táo nhận ra đám người tự nhận thương binh làm trò côn đồ đó theo lệnh của ai. Bảy trăm cơ quan ngôn luận Nhà nước làm ngơ trước những biểu hiện của xã hội đang bị bạo lực hóa, côn đồ hóa nhưng có tờ báo lớn của chính thống lại lu loa lên án người bị nạn, bị côn đồ gây sự đe dọa!

Chế tạo ra những thứ hôi thối, bẩn thỉu ném lên tường nhà, đổ vào cửa nhà dân. Đổ sơn, đốt cổng nhà dân . . . Những người dân phải hứng chịu trò côn đồ bẩn thỉu đó là những người đã từng là tù chính trị trong nhà tù Cộng sản, đã nhiều lần bị công an vô cớ bắt giữ, khám xét nên người dân đều biết rõ ai đã ra lệnh cho lũ côn đồ làm trò bẩn thỉu đó!

Công an đánh chết dân ngoài đường, đánh chết dân trong đồn công an diễn ra khắp nơi, ngày càng nhiều. Doanh nghiệp nước ngoài bị mất một số sản phẩm trong kho. Anh công nhân theo dõi việc xuất sản phẩm được mời lên đồn công an hôm trước thì hôm sau đã là cái xác không hồn. Cái chết của anh công nhân cao trên một mét bảy, nặng trên bảy mươi cân được công an giải thích là do anh tự treo cổ bằng sợi dây điện thoại mỏng manh! Anh công nhân mới cưới vợ trẻ, hai vợ chồng trẻ có việc làm ổn định, có cuộc sống vững vàng, đã mua được đất chuẩn bị xây ngôi nhà mơ ước để đón những đứa con của hạnh phúc và điều quan trọng là anh đã khẳng định mình vô tội trong vụ mất sản phẩm của doanh nghiệp và đang chứng minh sự vô tội đó vậy mà viện Kiểm sát tối cao sau ít ngày “điều tra” lấy lệ lại xưng xưng kết luận là anh công nhân tự tìm đến cái chết vì hối hận! Đó là kết luận của những thế lực liên kết tạo thành những nhóm lợi ích, kết luận của bạo lực Nhà nước, không phải là kết luận của công lí, của lương tâm , của lẽ phải.

Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bạo lực đã thay công lí. Cuộc sống chỉ có Bạo lực! Bạo lực! Và Bạo lực! Công lí như mặt trời trong đêm, không còn có trong cuộc sống nữa. Bóng công an, bóng bạo lực, bóng tối Trung Cổ đè xuống cuộc sống. Công an giết dân. Côn đồ giết dân. Mạng sống của người dân quá mong manh. Xã hội đầy nhiễu nhương, bất an.

Cuộc sống bị công an hóa, bạo lực hóa và Nhà nước đi đầu nêu tấm gương sử dụng bạo lực trong nhiều mối quan hệ dân sự với dân. Đại tá, giám đốc công an thành phố chỉ huy cuộc hành quân binh chủng hợp thành, công an và quân đội phối hợp, bài binh bố trận như một trận đánh sống mái với quân thù, bao vây, nã súng vào ngôi nhà đơn sơ, chơ vơ trên bãi biển chỉ có đàn bà và trẻ con của gia đình anh nông dân Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Ba ngàn cảnh sát chiến đấu của Bộ Công an cùng lực lượng công an huyện, công an tỉnh, áo giáp, tay khiên, tay súng trùng trùng đội ngũ, ầm ầm ra quân, trấn áp, xua đuổi vài trăm nông dân tay không, đầu trần, chân đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Bạo lực Nhà nước được huy động cao nhất giành mảnh đất sống của người nông dân giao cho nhà tư bản để họ kinh doanh làm giầu trên sự khốn cùng của những người nông dân đã góp xương máu mồ hôi dựng lên Nhà nước này. Hàng chục người dân lương thiện đã bị công an đánh chết trong các đồn công an trên cả nước khi người dân bị công an bắt chỉ vì những lỗi nhỏ trong sinh hoạt như đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, to tiếng cãi nhau với người thân, với hàng xóm . . .

Đau xót và tủi nhục cho nền văn minh Sông Hồng rực rỡ và cho mảnh đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm Văn hiến là chính ở trung tâm văn minh Sông Hồng, chính ở kinh đô ngàn năm văn hiến lại là nơi người dân bị công an đánh chết nhiều nhất, chết thương tâm nhất. Giữa thủ đô Hà Nội công an treo cao cái slogan chữ lớn bầy tỏ lòng trung thành của công an với đảng Cộng sản: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình, dưới cái slogan ấy nhiều người dân Hà Nội đã bị công an đánh chết thê thảm: Ngày 21. 11. 2009, anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hà Đông, Hà Nội. Chỉ ba tháng sau, ngày 21. 1. 2010, anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi, bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm tháng sau, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy Xuân Tiên, huyện Chương Mĩ, Hà Nội đánh chết. Tám tháng sau, ngày 28. 2. 2011, ông Trịnh Xuân Tùng, 53 tuổi, bị trung tá Nguyễn Văn Ninh, công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội đánh gãy cổ ở bến ô tô Giáp Bát dẫn đến cái chết trong đau đớn. Đau đớn cho người đang chờ chết, càng đau đớn gấp bội cho người sống còn lương tâm. Người dân Hà Nội còn chưa nguôi ngoai, chưa thể vơi nỗi căm phẫn ghê tởm trước sự độc ác, nhẫn tâm giết người của viên trung tá công an Nguyễn Van Ninh thì ngày 30. 8. 2012, công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội ngay trong buổi chiều bắt giam ông Nguyễn Mậu Thuận, 54 tuổi, vì xích mích với hàng xóm, đã đánh chết ông Thuận ngay trong trụ sở công an xã!

Nhà nước nào, xã hội đó. Nhà nước bạo lực tất tạo ra xã hội bạo lực. Những va chạm xích mích nhỏ từ trong gia đình đến ngoài xã hội đều giải quyết bằng bạo lực, bằng máu, bằng sự tước đoạt mạng sống của nhau. Cha giết con. Vợ giết chồng. Anh giết em. Người yêu giết người yêu . . . xảy ra hàng ngày trên khắp đất nước. Những cuộc thanh toán đẫm máu thường xuyên xảy ra trên đường phố, trong làng quê. Chú bé Lê Văn Luyện chưa đến tuổi thành niên lạnh lùng vung dao giết cả nhà bốn người chủ tiệm vàng để vơ một nắm vàng. Thời bạo lực Nguyễn Tấn Dũng đã sản sinh ra tội ác Lê Văn Luyện.

Đất nước của những bài dân ca, của những câu ca dao, thành ngữ chan chứa tình yêu thương: Thương Người như thể thương thân, bây giờ là đất nước của bạo lực, hận thù, của máu và nước mắt! Đất nước Việt Nam hiền hòa, gấm vóc của tôi ơi, có bao giờ đau đớn và tối tăm thế này chăng?

Văn minh tin học đã mang lại cho Con Người cuộc sống kì diệu, Với văn minh tin học, Con Người làm được những việc mà trước đây chỉ có thần thánh trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại mới làm được. Con Người đã trở thành thần thánh. Được sống với những tiện nghi kĩ thuật do công nghệ thông tin mang lại, Con Người còn được sống trong những giá trị nhân văn cao cả. Quyền Con Người đã là phổ quát, là đương nhiên ở mọi xã hội. Nhưng trên đất nước Việt Nam thân yêu của tôi với ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, giữa kỉ nguyên văn minh tin học, người dân Việt Nam vẫn chưa được sống kiếp Người, vẫn chỉ là bầy đàn, bầy ong, bầy kiến, vẫn phải sống trong bạo lực Trung Cổ. Quyền Con Người bình dị vẫn chỉ là thứ xa xỉ, vẫn là nỗi khao khát, mơ ước của người dân Việt Nam!

Tôi viết trong nghẹn ngào, đến đây nước mắt đã làm nhòe tất cả, tôi không thể viết được nữa!

Bà Yến: Tôi không phải ‘Quan làm báo’

Bà Yến: Tôi không phải ‘Quan làm báo’
04:57 5 thg 10 2012Công khai2 Lượt xem 0

Nguồn: BBC Tiếng Việt
Cập nhật: 12:19 GMT – thứ năm, 4 tháng 10, 2012

Cựu dân biểu Đặng Thị Hoàng Yến đã bác bỏ cáo buộc bà và em trai, Đại biểu Quốc hội Đặng Thành Tâm, có liên quan tới trang tin Quan làm báo.

Tin đồn này đã xuất hiện trên mạng internet trong khi mới đây hai nhân viên của tập đoàn Tân Tạo của gia đình họ Đặng đã bị bắt vì bị cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” và “Chiếm đoạt tài liệu bí mật Nhà nước”.

Cả bà Yến và ông Tâm đều đã có thư ‘kêu cứu’ lên Bộ Chính trị về vụ bắt bớ nhân viên của họ.

Trong trả lời phỏng vấn BBC qua thư điện tử hôm 30/9 với tư cách Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Tân Tạo, trước hết bà Yến trả lời câu hỏi ‘bà có bình luận gì về các vụ bắt giữ’ (những chữ viết hoa toàn bộ là nguyên văn email trả lời của bà Yến, tựa đề phụ là của BBC).

Bà Đặng Thị Hoàng Yến: Có lẽ tôi không cần bình luận gì thêm vì chính bản thân sự việc nói lên tất cả.

Một cô nhân viên hành chính bị bắt cóc giữa đường bởi những người mặc thường phục tự xưng là an ninh, sau đó, cô này bị giam giữ ở đâu đó, nhưng đã buộc phải gọi điện cho cơ quan nói dối “bận việc không đến làm việc được”.

“Tôi cũng có đọc trên các mạng xã hội nói rằng ai đó phát hiện ra ‘máy chủ’ của Quan làm báo ở nhà riêng của tôi ở bên Mỹ.” Cựu dân biểu Đặng Thị Hoàng Yến.

Rồi vào buổi chiều khi trường đại học đã về hết, hàng chục người mặc thường phục kéo đến lấy lí do “có virus độc hại phát tán từ máy tính”, dù KHÔNG đưa ra bất cứ giấy tờ chứng minh và cũng không hề giới thiệu danh tính, nhưng buộc bảo vệ cho vào văn phòng để khám xét và đe doạ những người có mặt: “KHÔNG được báo cho ai và phải giữ “bí mật”.

Chỉ sau khi tôi gửi đơn kêu cứu lên các cấp lãnh đạo cao nhất của Việt Nam thì một quyết định tạm giam của Bộ Công an đưa ra mà không hề được Viện kiểm sát phê chuẩn. Sau đó liên tục nhiều lần công an gọi điện doạ nạt gia đình KHÔNG được thuê luật sư bảo vệ!

Nếu quả thật cô nhân viên hành chính này có tội như họ đã công bố thì ai đó có phải cất công làm nhiều ‘thủ thuật’ như vậy không?

Đến ngày 20/9/2012, Phó Giám đốc Sinh viên vụ của Đại học Tân Tạo, trên đường đi làm về, tương tự, cũng bị hai người tự xưng là an ninh ép chặn giữa đường yêu cầu phải hợp tác và câu hỏi của những người này xoay quanh việc: Bà Chủ tịch Hội đồng Quản trị đang ở đâu, biết gì về bà này.

Chỉ đến khi anh này gọi điện cầu cứu thì hai người này mới bỏ đi…

Vậy thì, có cần phải bình luận không hay bất cứ một người dân bình thường nào cũng có câu trả lời cho trường hợp này?

KHÔNG PHẢI QUAN LÀM BÁO

BBC: Một số blogger thậm chí có vẻ gợi ý rằng bà và ông Đặng Thành Tâm có liên quan tới blog Quan làm báo, bà nghĩ sao?

Tôi cũng có đọc trên các mạng xã hội nói rằng ai đó phát hiện ra ‘máy chủ’ của Quan làm báo ở nhà riêng của tôi ở bên Mỹ.

Có lẽ ai cũng biết, máy chủ của các Blog như Quan làm báo, Dân làm báo, anh Ba Dũng, 4Sang… đều sử dụng chung hệ thống máy chủ của Blogspot thuộc về Google.

Bản thân tôi trong thời gian vừa qua không ở tại nhà riêng vì đang chữa bệnh, các con tôi đều đi học xa, nhà riêng của tôi bỏ trống và không có ai ở.

Còn em trai tôi thì có lẽ năm năm nay không sử dụng máy ví tính mà chỉ làm việc bằng máy điện thoại Blackberry thì làm thế nào mà làm chủ Quan làm báo?

Quan điểm cá nhân tôi: ngay cả luật pháp Việt Nam cũng có quy định quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, do vậy, nếu những trang mạng phản ánh không đúng thì các báo chính thống của Nhà nước có thể công khai tranh luận và Chính phủ có thể trả lời bằng hành động thực tế của mình.

Tôi tin rằng 90 triệu người dân yêu nước Việt Nam có đủ trí tuệ và tấm lòng để nhận thức được đúng sai, thật giả.

BBC: Có một số nguồn tin cho rằng bà và em trai có quan hệ gần gũi với Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đang bị kẹt trong cuộc đấu đá quyền lực giữa ông Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bà có thể bình luận về chuyện này không?

À, tôi có đọc trên mạng cho rằng tôi ‘thân’ với Thủ tướng mà! Còn em trai tôi, nếu nói là có quan hệ tốt với Chủ tịch nước thì có lý hơn.

Tôi nghĩ doanh nhân Việt Nam đóng góp rất lớn vào GDP, tới gần 50% và tạo ra trên 46 triệu trong tổng số 52 triệu việc làm của cả nước.

Riêng doanh nghiệp của chúng tôi, hai tập đoàn đã tạo hàng triệu công ăn việc làm, chỉ một công ty đã đứng thứ 129 trên hơn 600.000 doanh nghiệp trên cả nước về nộp thuế trong năm 2010, thu hút đầu tư nước ngoài chiếm trên 20% của cả nước trong năm 2011.

“[Chúng tôi, các doanh nhân,] cũng chỉ như những cánh bèo mà thôi, bất cứ ai cũng có thể mang đi băm vụn ra vì hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện và con người thực hiện lại cố tình không coi luật pháp tồn tại!” Đặng Thị Hoàng Yến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tân Tạo.

Chúng tôi cũng là những tập đoàn duy nhất ngoài quốc doanh được thưởng nhiều huân chương Lao động hạng 3, 2 và hạng nhất, chiến sĩ thi đua, cờ của Thủ Tướng hàng chục năm.

Song thực tế hiện nay [chúng tôi] cũng chỉ như những cánh bèo mà thôi, bất cứ ai cũng có thể mang đi băm vụn ra vì hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện và con người thực hiện lại cố tình không coi luật pháp tồn tại!

Đối với nhà đầu tư nuóc ngoài ít nhiều họ còn lo ngại bị phản ứng qua đường ngoại giao, còn các doanh nghiệp trong nước họ muốn cho sống được sống, muốn giết thì phải chết!

‘QUỐC HỘI THÍCH CỪU’

BBC: Bà có tiếc vì bị bãi nhiệm vị trí Đại biểu Quốc hội không? Theo bà, có động cơ chính trị nào trong việc bãi nhiệm bà hay không?

Có lẽ hối tiếc thì không! Nhưng tôi đã ‘NGỘ’ ra nhiều điều rằng: Dường như KHÔNG mấy ai cần người dám nói lên những bức xúc của người dân trong Quốc Hội, mà cũng không nhiều người muốn đấu tranh vì một Việt Nam tốt đẹp hơn.

Có lẽ tại nghị trường Việt Nam, người ta thích những con cừu hoặc có thể chấp nhận những ông bà Nghị mà câu phát biểu bao giờ cũng phải được bắt đầu bằng “Tôi hoàn toàn nhất trí với báo cáo” rồi sau đó, có thể phản biện vài ba khuyết điểm của tập thể, chẳng chết ai bao gìờ!

Hình như, người ta không chấp nhận những ông bà Nghị dám đấu tranh trực diện, điểm mặt, gọi tên bản chất của sự việc và càng không muốn có những tiếng nói trái chiều, những tiếng nói phản ánh nỗi bức xúc, nhức nhối của Người dân…

Việc bãi miễn tôi bởi những lý do mà bất cứ một con người có lương tri và khối óc nào cũng đều thấy nó không có thật, vậy thì việc bãi miễn đương nhiên phải để phục vụ lợi ích của ai đó hay của nhóm lợi ích nào đó.

BBC: Trong thời gian làm Đại biểu Quốc hội ngắn ngủi, bà nghĩ mình đã làm được gì cho người dân?

Trong thời gian làm Đại biểu Quốc hội, tôi tự hào vì đã hoàn thành cao nhất vai trò của mình trong việc tham gia vào những chính sách vĩ mô, dám đấu tranh thẳng thắn vào những việc nổi cộm, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Chẳng hạn về vấn đề về thuế, tôi đã vạch ra việc thu thuế phí ở Việt Nam chiếm tới 28-32% GDP là cao nhất Khu vực làm kiệt sức dân và doanh nghiệp.

Ý kiến này đã được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đại biểu và đã được Quốc Hội tiếp thu đưa vào giảm xuống trong những năm tới ở mức 22-23%/GDP.

Còn về vấn đề các công trình thủy lợi, tôi đã cảnh báo về hậu quả chất lượng quá kém và đầu tư không đồng bộ của trên 3.000 hồ thuỷ lợi, thuỷ điện trên khắp cả nước.

Thực tế sự cố đập thủy điện Sông Tranh 2 đã xảy ra.

Cá nhân tôi cũng đã đấu tranh tích cực cho sự bình đẳng của các thành phần kinh tế, đề đạt xoá bỏ sự độc quyền, ưu đãi của các doanh nghiệp nhà nước là cội nguồn của tham nhũng, thất thoát lớn làm suy kiệt sức dân và nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.

Tôi cũng đã đề xuất cần xem xét lại định hướng phát triển kinh tế đất nước phải dựa vào thế mạnh hiện có đến 4,3 triệu ha đất trồng lúa là một đất nước xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới hàng chục năm qua.

Cần phải bằng những chính sách vĩ mô thúc đẩy sản xuất và chế biến nông nghiệp chất lượng cao nói chung và sản xuất gạo xuất khẩu chất lượng cao nói riêng mà 90% giá trị gia tăng là ở trong nước.

Đặc biệt Việt Nam cần tham gia tích cực vào đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới với gần một tỷ người còn đang bị đói là nỗi ám ảnh lớn trong thế kỷ 21, từ đó sẽ nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tôi cũng tâm đắc đã được đóng góp tích cực vào Luật giáo dục Đại học của Việt Nam. Tuy chưa hẳn đã đươc như mong muốn, song cũng có một bước tiến bộ lớn.

Ngoài ra, tôi cũng đã mạnh dạn cảnh báo về loại tội phạm ngân hàng và các nhóm lợi ích chi phối chính sách kinh tế vĩ mô, điều mà thời gian qua đã xảy ra và chính Thủ Tướng đã chỉ đạo phải làm rất kiên quyết.

Song có lẽ bản thân tôi đã phải gánh chịu hậu quả của chính những phát hiện, chất vấn này với ông thống đốc Nguyễn Văn Bình vào kỳ họp thứ 2 của Quốc Hội.

Đối với các cử tri nơi đã tín nhiệm bầu tôi, tuy chỉ mới có một năm ngắn ngủi, song có lẽ họ là những người hiểu rõ nhất những đóng góp của cá nhân tôi, có thể kể một vài ví dụ:

Hiến tặng toàn bộ tài sản xây dựng trường Đại học Tân Tạo đẹp nhất Việt Nam trên diện tích 103 ha. Đây là trường đại học theo tiêu chuẩn quốc tế, giảng dạy bằng tiếng Anh và phi lợi nhuận đúng nghĩa đầu tiên ở Việt Nam, thực hiện cấp học bổng 100% cho các sinh viên tài năng mà nghèo khó.

Hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí cho 4000 phụ nữ, tài trợ tiêm phòng Viêm Gan B cho 18500 trẻ em, tài trợ mổ tim dị tật bẩm sinh cho 500 em, tài trợ học bổng cho 2000 Hoa Trạng nguyên của đất nước….

Tài trợ Đề án trồng lúa gạo sạch theo tiêu chuẩn Global Gap đưa năng suất lúa tại vùng dự án trước đây chỉ đạt từ 3-4 tấn/ha nay đã qua hai vụ lúa luôn đạt 7 – 8 tấn/ha/vụ với giá trị dinh dưỡng cao, giúp người nông dân tăng thu nhập cao hơn so với thu nhập bình quân trước đây từ 10 – 20 triệu đồng/1 ha/vụ lúa.

Mô hình này đã được thí điểm thành công và hiện đang được nhân rộng tiến đến xây dựng thương hiệu gạo sạch của Việt Nam.

Đến nay dù không còn là đại biểu Quốc hội, tôi vẫn đang tiếp tục triển khai những gì mình đã làm.

‘BÓP NGHẸT TỰ DO DÂN CHỦ’

BBC: Với tư cách là một doanh gia, bà nghĩ sao về các chính sách kinh tế hiện nay của chính phủ Việt Nam?

Không phải cá nhân tôi nghĩ sao mà thực tế hiện nay đã cho thấy nền kinh tế đất nước đang bộc lộ nhiều bất cập của các chính sách vĩ mô và ngay Chính phủ Việt Nam cũng đã phải nhìn nhận chính sách vĩ mô bị chi phối bởi nhóm lợi ích.

Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam so với các nước Asean thấp hơn, cho dù xuất phát điểm cao hơn nếu xét cho thời điểm năm năm qua.

Các tập đoàn Nhà nước làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng bộc lộ rõ nét nhất, điều chưa từng xảy ra trước đây.

“Nếu tiếp tục định hướng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì chắc chắn sẽ không phải chỉ có một Vinashin, Vinaline mà hầu hết các Tập đoàn Nhà nước sớm muộn cũng sẽ đổ bể và hậu quả có thể còn tồi tệ hơn Vinashin.” Cựu dân biểu Đặng Thị Hoàng Yến.

Tuy nhiên nếu tiếp tục định hướng doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo thì chắc chắn sẽ không phải chỉ có một Vinashin, Vinaline mà hầu hết các Tập đoàn Nhà nước sớm muộn cũng sẽ đổ bể và hậu quả có thể còn tồi tệ hơn Vinashin.

Hệ thống Ngân hàng, tín dụng bị bóp méo và mô hình của Nước Nga từ mấy chục năm trước được Thống đốc Bình mang về áp đặt nguyên xi cho Việt Nam đã dẫn đến hậu quả nặng nề khiến hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản.

Các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô bằng can thiệp hành chính như chính sách độc quyền vàng, hay sự tùy tiện xếp loại các ngân hàng thương mại cổ phần một cách không minh bạch, bị buộc thanh tra, giám sát đặc biệt, buộc sáp nhập tuỳ tiện theo sự chi phối của lợi ích nhóm đã không đạt được mục tiêu Chính phủ đề ra là củng cố hệ thống ngân hàng theo hướng chuẩn hóa quốc tế.

Đặc biệt việc bỏ ‘quên’ tái cấu trúc các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến 60-70% thị phần cả nước với nợ xấu đúng chuẩn theo công bố của chính Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là 10% thì đã gần như mất hết vốn, thật sự tiềm ẩn rủi ro lớn cho nền kinh tế khi bị đổ bể.

BBC: Bà cũng hay có dịp ra nước ngoài, vậy bà thấy cái nhìn của người Việt và người nước ngoài về Việt Nam ra sao?

Bạn bè trong ngoài nước bày tỏ sự quan ngại sâu sắc đối với tình hình của Việt Nam hiện nay.

Xem ra, đất nước đang bị kéo lùi trở lại thời kỳ hành chính bao cấp, những quyền cơ bản của con người, quyền tự do dân chủ đang bị chi phối và bị bóp nghẹt và nhân dân đang bị nghèo hơn đi cả về đời sống vật chất và tinh thần.

Nguồn: BBC tiếng Việt

Bốn câu chuyện “ngược đời” của giáo dục Mỹ

Bốn câu chuyện “ngược đời” của giáo dục Mỹ
06:10 4 thg 10 2012Công khai4 Lượt xem 0

Mình thích bài viết dưới đây vì giải thích được phần nào những thứ mà (cách đây không lâu, đến nay vẫn còn) người Việt hay phê phán về tính “thực dụng”, trong đó có giáo dục, của người Mỹ. Thực ra, rất nhiều người Việt phát biểu về tính “thực dụng” của người Mỹ theo tâm trạng “con cáo và chùm nho”. Do phải trải qua hàng chục, thậm chí hàng trăm năm chiến tranh, lại phải đắm chìm trong “u mê tập thể” của bao cấp nên rất nhiều ngành, nghề, rất nhiều cách làm, cách sống, cách sinh hoạt… của người VN mấy chục năm lại đây vẫn không thoát ra được cái gọi là sự trưởng thành. Trưởng thành sao được khi còn phải nhờ người khác cho ăn, cho mặc, cho ở, cho việc làm, cho vào “khuôn khổ” chủ quan, rập khuôn…? Trong đó, nền giáo dục VN là nơi thể hiện sự bao cấp nhiều nhất. Bao cấp cả cách làm giáo án, bao cấp chương trình, bao cấp quản lý, bao cấp sử dụng nhân lực, bao cấp cả tư duy “đáy giếng”…, nên bảo chất lượng giáo dục cao “so với cường quốc năm châu” phải chăng là quá khó?! Mặc dù người Việt khá thông minh, ham học hỏi nhưng khi Bộ Giáo dục còn “lo” thiết kế cả tờ giấy thi, cả cách thi, nội dung thi, nội dung học…, cho các trường thì đòi hỏi sự sáng tạo, đột phá sẽ là hiếm…
Nói về giáo dục, có lần mình “thấy” rằng nền GD VN hiện nay còn thua xa cách làm trong các triều đại phong kiến ngày xưa. Các cụ xưa đâu cần biết “anh” học ở đâu, học ai, miễn là hàng năm ‘tôi” mở khoa thi, nếu anh đỗ đạt thì “tôi” bố trí theo mức điểm cao, thấp…
Nhân nói về sự thực dụng của người Mỹ,cách đây khoảng vài chục năm, mình đọc một bài viết trên một tờ báo. Tác giả bài báo được tháp tùng một quan chức sang Mỹ. Về đến nơi, nhà báo có bài “phê phán”, rằng người Mỹ quả là “thực dụng” có tiếng, ngay cả cách đặt tên và sắp xếp đường xá. Trừ các đại lộ lớn, đa phần đường phố Mỹ đều đặt tên đường theo số thứ tự chẵn, lẻ chứ không phải tên danh nhân như ở ta. Đường xá gần như ô bàn cờ, thẳng tắp chứ không phải ngoằn ngoèo để có “văn hóa hẻm” như ta. Chính vì vậy, nếu có lạc đường thì chỉ cần mình xem đang đứng đường nào, xem tứ phía là đường nào thì sẽ biết được mình cần đi hướng nào, thậm chí biết được mình cần về chỗ ở còn bao xa… Tôi chưa từng đi Mỹ nhưng hồi đó đọc và đã biết tác giả bài báo trên “phê lấy được” như thế nào?!…
Nên, đọc bài dưới dây sẽ thấy thú vị về câu kết của tác giả bài “Bốn câu chuyện “ngược đời” của giáo dục Mỹ”: “Chuyện ngược đời thứ năm là bất chấp những chuyện ngược đời vừa kể giáo dục Mỹ vẫn có chất lượng cao nhất thế giới. Bằng chứng là họ kinh doanh giỏi nhất, nghiên cứu khoa học giỏi nhất, đóng phim giỏi nhất, chơi đàn giỏi nhất, hát hay nhất, chơi thể thao giỏi nhất, và ngay cả trong văn học cũng là một trong những nước có nhiều nhà văn đoạt giải Nobel nhất”.

Ngô Tự Lập – DĐDN

Ở Mỹ, chương trình học của các trường phổ thông không chỉ khác nhau tuỳ theo các bang mà còn khác nhau tuỳ theo từng vùng, từng quận, thậm chí tuỳ theo từng trường. Rất nhiều người không biết rằng rất nhiều học sinh Mỹ không hề biết gì về thuyết Darwin.

Trẻ em Mỹ “không cần” trường

“Không cần” theo nghĩa đen, không phải một cách nói ví von hoa mỹ về một thực tế khác cũng ngược đời nếu so với giáo dục Việt Nam: Nhà trường chỉ là một thành phần, cho dù là một thành phần quan trọng, trong một phức hợp xã hội có nhiệm vụ giáo dục những công dân Mỹ tương lai.

Nhà trường không và cũng không thể thay thế được gia đình, cộng đồng sinh hoạt, các đoàn thể, các tổ chức tôn giáo, văn học nghệ thuật, viện bảo tàng, lễ hội, các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động thể thao… “Không cần” ở đây có nghĩa là trẻ em Mỹ có thể học ở nhà, theo chế độ homeschooling (học tại gia).

Chế độ “Học tại nhà” (Home schooling) cho phép cha mẹ tự giáo dục con cái thay vì cho chúng đến trường mà không yêu cầu phải có chứng chỉ gì đặc biệt. Nhiều người Mỹ cho rằng đó là cách để trẻ em có thể phát huy tính tự lập, chủ động trong cả 365 ngày chứ không chỉ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động trong những lúc đến trường. Đó là một nguyên lý giáo dục khác hẳn, dựa trên quan điểm là mọi bậc cha mẹ đều có thể giúp đỡ con cái học tại nhà.

Nhiều gia đình không hề sử dụng các tài liệu hướng dẫn hay chương trình giảng dạy chính thức, mà căn cứ vào thiên hướng và phong cách cá nhân của trẻ em để áp dụng các phương pháp và nội dung cụ thể. Ngay cả trong trường hợp có sử dụng các tài liệu hướng dẫn, thời gian học tập hàng ngày cũng không kéo dài quá vài tiếng đồng hồ, thời gian còn lại dùng để du lịch, biểu diễn, tham quan, đọc sách, tiến hành các dự án nghiên cứu hay tham gia hoạt động từ thiện. Hiện nay có khoảng 1 triệu gia đình ở Mỹ áp dụng và theo thống kê đang tăng lên khoảng 15% mỗi năm.

Trẻ em Mỹ cũng không theo một chương trình thống nhất

Ở Mỹ, chương trình học của các trường phổ thông không chỉ khác nhau tuỳ theo các bang mà còn khác nhau tuỳ theo từng vùng, từng quận, thậm chí tuỳ theo từng trường. Rất nhiều người không biết rằng rất nhiều học sinh Mỹ không hề biết gì về thuyết Darwin. Ở một số địa phương, đặc biệt là tại các bang ở miền Nam, do ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiên Chúa Giáo, giảng dạy thuyết Darwin thậm chí còn bị coi là phi pháp.

Vì không học theo một giáo trình thống nhất, trình độ của học sinh khi tốt nghiệp trung học rất khác nhau. Chính vì lẽ đó, ở năm thứ nhất, các trường đại học Mỹ thường có 3 môn bắt buộc là Học nghĩ, Học nói và Học viết. Trong số 18 sinh viên lớp Học viết (English 101) do tôi phụ trách, có những sinh viên hiểu biết rất rộng và sâu, nhưng cũng có sinh viên thậm chí viết tiếng Anh còn sai chính tả và ngữ pháp.

Tuy vậy, họ có một điểm chung là rất tự tin. Đó là kết quả của một triết lý giáo dục mang tính dân chủ. Việc chấm điểm, chẳng hạn. Nếu ở ta chấm điểm là biện pháp nhằm xếp loại học sinh và đánh giá giáo viên, điều cuối cùng dẫn giáo viên đến tình trạng chạy theo thành tích và rất nhiều học sinh đến tâm lý tự ti.

Không tự ti sao được khi một đứa trẻ từ lớp 1 đến lớp 12 luôn luôn đội sổ, và điều đó được công bố cho tất cả bạn bè cùng lớp. Ở Mỹ, việc chấm điểm là vấn đề tế nhị, thường là giữ kín. Nó là cơ sở để học sinh tự biết mình và để giáo viên điều chỉnh phương pháp giáo dục với từng học sinh. Nhà trường Mỹ luôn cố gắng để học sinh không cảm thấy thua chị kém em. Ngay cả thi tốt nghiệp phổ thông cũng không có vai trò quan trọng như ở Việt Nam hay ở Châu Âu. Có thể nói, nhà trường ở Mỹ là nhà trường không nhằm mục đích thi cử.

Các trường phổ thông của Mỹ không có sách giáo khoa chung trong cả nước

Việc lựa chọn các loại sách để dạy trong nhà trường thuộc thẩm quyền của cơ quan chuyên trách địa phương và nhà trường, nhưng vai trò cá nhân của giáo viên và ý kiến của phụ huynh cũng rất quan trọng. Chẳng hạn, cuối tháng 9 năm 2003, khi tôi vừa đến Normal, cuốn sách nổi tiếng của nhà văn Hoa Kỳ đoạt giải Nobel John Steinbeck, “Of Mice and Men” (Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu dịch là “Của chuột và người”), cùng hai tác phẩm kinh điển khác là “The Adventures of Huckleberry Finn” (Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn) của Mark Twain và “To Kill a Mockingbird” (Giết chết một con chim Mocking) của Harper Lee, bị cha mẹ học sinh các trường trung học phản đối và đòi đưa ra khỏi chương trình văn học.

Hai trường trung học Normal Comunity High School và Normal West High School phải thành lập một chuyên ban, bao gồm hiệu trưởng, một chuyên gia thông tin đại chúng và một giáo viên, để nghiên cứu và trả lời phụ huynh học sinh. Bà Tripp, phụ huynh học sinh và là tác giả một trong hai lá thư khiếu nại, phê phán cuốn sách của John Steinbeck là chứa đựng thái độ kỳ thị chủng tộc, ngôn ngữ thô tục và báng bổ, “không thể hiện các giá trị truyền thống”, “gây phản cảm” đối với con gái bà.

Đây không phải là trường hợp cá biệt. Năm 1992, khi một nhóm độc giả ở bang Ohio chỉ ra 108 chỗ tục tĩu, 12 chỗ chứa đựng thái độ kỳ thị chủng tộc và 45 đoạn báng bổ Chúa, cuốn sách này đã bị buộc đưa ra khỏi chương trình của một trường phổ thông địa phương. Ngay sau đó, 150 nhà giáo, sinh viên và phụ huynh học sinh đã tổ chức một cuộc hội thảo ca ngợi giá trị của cuốn sách, cuối cùng nó được đưa trở lại chương trình. Mùa hè năm 2003, Hội đồng giáo dục quận Coffee County (Bang Georgia) cũng phải tiến hành thẩm định vấn đề “ngôn ngữ dung tục” của cuốn sách “Of Mice and Men” khi có khiếu nại của một số phụ huynh học sinh. Đầu năm 2003, Hội đồng nhà trường quận George County ở Lucedale (Bang Mississippi) đã nhất trí loại “Of Mice and Men” cùng hai cuốn sách khác ra khỏi chương trình.

Coi nhà trường như doanh nghiệp

Nếu như ở Việt Nam, cho đến nay thương mại hoá giáo dục vẫn gây tranh cãi và bị nhiều người coi là tồi tệ, thì ở Mỹ nó đang tồn tại như một cái gì đó hết sức tự nhiên.

Khác với Việt Nam, các trường đại học Mỹ nói chung không có thi đầu vào. Quan điểm của họ rất đơn giản: Học tập là quyền chính đáng của mọi người, mặc dù xuất phát điểm có thể khác nhau. Nhờ vậy, tất cả những ai có chí đều có thể có cơ hội, ngược lại quốc gia cũng không bỏ phí nhân tài. Vào thập kỷ 1960, số học sinh Mỹ tốt nghiệp phổ thông học tiếp lên đại học chiếm tỷ lệ 60%. Hiện nay, tỷ lệ này có giảm đi, nhưng vẫn đứng đầu thế giới. Nhưng muốn học, phải trả tiền. Khi anh bỏ tiền để mua kiến thức, anh sẽ có ý thức về việc học tập hơn. Còn nếu anh trả tiền mà không học, tức không nhận kiến thức, thì đó cũng là quyền của anh.

Nói vậy, nhưng việc đăng ký học cũng không phải hoàn toàn chỉ có chuyện tiền nong. Một số trường nổi tiếng khá kén chọn sinh viên. Một số bang cũng ưu tiên nhận sinh viên từ bang mình. Còn đối với sinh viên nước ngoài, điểm thi tiếng Anh (TOEFL) đặc biệt quan trọng. Trường Đại học Y khoa là một ngoại lệ. Muốn vào trường, sinh viên phải có bằng tốt nghiệp đại học thuộc một số ngành như sinh hoá, sinh vật…Chương trình kéo dài 4 năm nữa, sau đó phải thực tập từ 2 đến 4 năm. Như vậy, để hành nghề chữa bệnh, cần phải học và thực tập từ 10 – 12 năm!

Việc học tập ở Mỹ rất tốn kém. Mức chi tiêu tối thiểu của một sinh viên ở các trường công, vào khoảng 10 ngàn USD/năm, còn ở các trường tư khoảng 35 ngàn USD. Vì thế, trừ một số người được nhận học bổng hoặc gia đình giàu có, sinh viên Mỹ hầu hết vừa học vừa làm, một số làm việc ngay tại trường.5. Chuyện ngược đời thứ năm là bất chấp những chuyện ngược đời vừa kể giáo dục Mỹ vẫn có chất lượng cao nhất thế giới.

Bằng chứng là họ kinh doanh giỏi nhất, nghiên cứu khoa học giỏi nhất, đóng phim giỏi nhất, chơi đàn giỏi nhất, hát hay nhất, chơi thể thao giỏi nhất, và ngay cả trong văn học cũng là một trong những nước có nhiều nhà văn đoạt giải Nobel nhất.

Myanmar: Trưởng ban kiểm duyệt đậy nắp bút

Myanmar: Trưởng ban kiểm duyệt đậy nắp bút
04:40 24 thg 9 2012Công khai7 Lượt xem 0

Nguồn: BASAMNEWS
The New York Times
Tác giả: Thomas Fuller
Người dịch: Đỗ Uyên 21-9-2011

Văn phòng của ông ta một thời là trung tâm thẩm vấn, do các nhân viên cảnh sát quân sự đáng sợ của Nhật Bản điều hành, suốt Thế chiến II. Và đó là lý do vì sao quý ông Tint Swe mang biệt danh: kẻ tra tấn chữ nghĩa. “Chúng tôi không bắt, không tra tấn ai cả, nhưng chúng tôi phải tra tấn những gì họ viết” – ông Tint Swe nói, bộ mặt nghiêm nghị nhường chỗ cho một nụ cười mơ hồ. Ông Tint Swe là tổng kiểm duyệt gia cuối cùng của Myanmar, là viên trọng tài hùng mạnh phán xét những gì công chúng được phép đọc – và phán xét xem cái gì sẽ bị xóa khỏi chính sử. Suốt gần 5 thập kỷ, các chính quyền quân sự ở Myanmar kiểm tra từng cuốn sách, từng cái tựa đề, từng bức ảnh và tranh minh họa, từng bài thơ, trước khi chúng được in ra. Đó là một công việc quan trọng sống còn đối với quân đội – lực lượng tìm cách kiểm soát gần như toàn bộ mọi mặt của đời sống dân sự. Văn phòng kiểm duyệt được biết đến với một cái tên từ thời Orwell (George Orwell, nhà văn Anh, nổi tiếng với hai tiểu thuyết phê phán chủ nghĩa toàn trị là “Trại súc vật” và “1984”, từng sinh sống ở Myanmar hồi thập niên 20 của thế kỷ trước – ND): Cục Giám sát và Đăng ký Báo chí. Văn phòng này từng làm nhiều thế hệ người viết phát điên, phát khùng. Các nhân viên kiểm duyệt trả lại bản thảo với những dòng gạch đỏ, sau quá trình kiểm tra toàn diện. Thường là họ cấm cả sách, báo. Bất kỳ ý đồ chống đối/ bất mãn thoảng qua nào nhằm vào lực lượng quân sự, hoặc hàm ý gì về chính quyền tham nhũng, đều bị xóa bỏ. Miến Điện (Burma) – tên cũ của đất nước này – bị gạch đi để chỉ dùng tên Myanmar là tên mà Hội đồng Quân sự thích. Ngay cả các trang vàng trong danh bạ điện thoại cũng phải đi qua văn phòng kiểm duyệt. Khoảng 100 kiểm duyệt viên, phần lớn là phụ nữ, ngồi trên những chiếc ghế mây cũ kỹ và làm việc bên những chiếc bàn gỗ tếch cũ kỹ. Một số phần việc được tiến hành trên máy tính, song nhiều kiểm duyệt viên vẫn phải đặt sẵn bút đỏ trong lọ đựng bút. Văn phòng ngổn ngang những chồng sách, báo, bản thảo, mà nhân viên văn phòng cho biết là họ phải phun thuốc diệt mối thường xuyên để xử lý mối mọt. Nhưng hiện nay, văn phòng yên ắng rõ rệt. Cách đây một tháng, ông Tint Swe đã triệu tập các tổng biên tập, chủ bút và người làm xuất bản hàng đầu của đất nước đến đây và ra một tuyên bố trọng đại: Sau 48 năm và 14 ngày, chế độ kiểm duyệt sẽ bị vứt vào đống đống nát của lịch sử. Đối với thế giới, những thay đổi chính trị ở Myanmar – có thể kể đến một số việc như trả tự do cho các tù nhân bất đồng chính kiến, thành lập Quốc hội để tranh luận được diễn ra sôi nổi, và quyền tự do báo chí mới trao – vừa đột ngột lại vừa khó hiểu. Trong lịch sử cận đại, mới chỉ có vài trường hợp độc tài quân sự từ bỏ quyền lực mà không có bạo lực và đổ máu. Câu chuyện của ông Tint Swe cho thấy những thay đổi từ trong chính quyền, một sự tự nhận thức dần dần ở rất nhiều công chức, rằng ách cai trị quân sự là không thể trụ vững được. Năm ngoái, ông Tint Swe và các quan chức khác trong Bộ Thông tin đã vạch lộ trình cho việc xóa bỏ chế độ kiểm duyệt – chỉ vài tháng sau khi chính quyền dân sự của tổng thống lên nắm quyền. “Công việc mà tôi đã làm đó không phù hợp với thế giới, không phù hợp với thực tế” – ông Tint Swe phát biểu tại văn phòng của mình, nơi mà các khẩu hiệu của chính quyền treo gần kín các bức tường. “Chúng tôi không thể không thay đổi” – ông nói. “Cả nước muốn thay đổi”. Chính thức thì ông Tint Swe, 47 tuổi, là một thế lực hùng mạnh đứng sau cỗ máy tuyên truyền khủng khiếp của phe quân sự. Nhưng trong một biểu hiện cho thấy quyền lực của chế độ đã sụp đổ trong những năm suy vong của nó, nhà tổng kiểm duyệt này đã có một thời gian sống hai mặt. Trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi, ông ta thú nhận rằng bản thân cũng là một cây viết đầy khát vọng. Vào những ngày cuối tuần, ông Tint Swe viết nhiều bài dài về lịch sử quân sự, vũ khí, và các đề tài khác. Một trong những cuốn sách ưa thích của ông là về lịch sử quân sự Mỹ. Ông ta đưa bài lên Facebook – việc này khiến nhiều nhà báo cười giễu rằng ngay cả đến nhà tổng kiểm duyệt cũng biết phải làm thế nào để tránh hội đồng kiểm duyệt. Những tiến bộ công nghệ đó đã thách thức chính quyền. Điện thoại cầm tay, tivi vệ tinh, và thế giới xuất bản số, tất cả đều nằm ngoài tầm tay của giới kiểm duyệt. Và chúng đều không phải là những thực thể trừu tượng đối với các quan chức như ông Tint Swe. Họ và gia đình họ cũng đều đang sống trong thay đổi. Các nhà báo Myanmar cho biết ông Tint Swe, vốn là cựu quan chức trong quân đội, đã thay đổi dần dần trong thời gian 5,5 năm qua làm cái nghề gọi là tra tấn chữ nghĩa. (Trong quá khứ, tra tấn về thể xác ở Myanmar thường được sử dụng để hành hạ tù chính trị, và việc này do các cơ quan khác trong chính quyền đảm trách). Ban đầu là một công chức nghiêm khắc, thô bạo và cứng rắn – xuất thân từ một quan chức quân đội trong một chính thể độc tài – ông Tint Swe đã trở nên ngày càng thân thiện và khoan hòa hơn, ông đã nhận ra rằng kiểm duyệt là điều không thể tồn tại trong kỷ nguyên Internet. Năm nay, ông đi xa hơn, bằng việc giúp các tổng biên tập tổ chức hội nghị về tương lai của báo chí trong nước. Saw Lynn Aung, chủ bút tờ tuần báo Naypyitaw Times, nhớ lại cơn giận dữ không kiềm chế được của ông Tint Swe cách đây 5 năm, khi ông ta ra lệnh phải xóa bỏ một bài viết chống tham nhũng ở một bộ nọ. “Anh biết luật rồi đấy!” – ông Aung nhớ lại rằng ông Tint Swe đã hét lên như thế. “Tôi có thể đóng cửa báo các anh!”. Ông Tint Swe làm công việc của nhà tổng kiểm duyệt vào một trong những thời kỳ khó khăn nhất đối với phe quân sự cầm quyền: cuộc nổi dậy của các nhà sư vào mùa thu năm 2007, phản ứng vụng về của chính quyền trong thảm họa bão Nargis, cơn bão làm chết ít nhất 130.000 người vào tháng 5-2008. Ông bảo, những ngày đó, kiểm duyệt là cần thiết, để duy trì ổn định, trật tự. Các nhà báo cho biết, kể từ sau những biến cố đó, ông bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu cho thấy một sự uyển chuyển hơn. Ông Saw Lynn Aung nói: “Ông ấy bảo: ‘Xin kiên nhẫn, đợi đã, rồi sẽ có thay đổi’. Cá nhân tôi cho rằng ông ấy đi trước mọi sự thay đổi một chút”. Ông Tint Swe cho biết, giống như bất kỳ người nào khác, ông đã quan sát cẩn thận, tìm các dấu hiệu thay đổi ở tầng lớp lãnh đạo cao nhất. Ông đọc rất kỹ bài diễn văn nhậm chức năm ngoái của ông Thein Sein, bài diễn văn này tập trung vào hòa giải dân tộc và giảm nghèo. “Bài diễn văn làm tôi có cảm giác rằng một sự thay đổi thật sự đang đến” – ông Tint Swe nói. Ba tháng sau khi tổng thống nhậm chức – phải mãi sau này các nhà quan sát bên ngoài mới bắt đầu tin rằng quá trình cải cách là có thật – ông Tint Swe và các quan chức khác đã có những bước đi đầu tiên nhằm phá bỏ hệ thống kiểm duyệt. Vào tháng 6-2011, các bài báo nói về giải trí, y tế, trẻ em và thể thao bắt đầu được miễn kiểm duyệt. Tiếp sau đó là các chủ đề khác, và đỉnh cao là tháng trước, với chính trị và tôn giáo trở thành hai lĩnh vực cuối cùng tháo bỏ kiểm duyệt. Trong khi tàn tích của chế độ độc tài dần lui vào quá khứ, cũng vẫn có những nhà cố vấn lo sợ về một sự tái xuất hiện độc tài. Liệu các ông trùm kinh doanh – vốn kiếm tiền từ chế độ độc tài, độc quyền và những hợp đồng được chính quyền quân sự ban cho – có làm chậm bước tự do hóa kinh tế không? Liệu những người kiên quyết thay đổi có chi phối được phe cải cách không? Bàn về vấn đề kiểm duyệt, ông Tint Swe tỏ ra rất dứt khoát. “Không có chuyện quay trở lại” – ông nói. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những thắc mắc về quyền tự do báo chí ở Myanmar. Báo chí vẫn phải có giấy phép mới được xuất bản. Kyaw Min Swe, chủ bút Tuần báo Tiếng nói (The Voice Weekly) – một tờ báo dấn thân đã từng bị chính quyền tạm đình bản 6 lần – nói rằng xóa bỏ kiểm duyệt là chưa đủ. Ông nhận định rằng toàn bộ Bộ Thông tin cũng phải bị xóa bỏ. “Bộ Thông tin nói chung là để phục vụ độc tài” – ông Kyaw Min Swe nói. Ông Tint Swe cho biết, số phận của văn phòng kiểm duyệt và các nhân viên của nó vẫn còn đang được xem xét quyết định. 100 nhà kiểm duyệt thú nhận, họ có thừa thãi thời gian rảnh tay và chẳng bao lâu nữa, sẽ ít việc hơn: trách nhiệm cho đăng ký xuất bản ấn phẩm giờ đây được giao lại cho mỗi bang tự quyết. (Myanmar theo chế độ liên bang – ND). Ông Tint Swe nhìn một lượt quanh văn phòng, và bảo rằng ông có cảm giác mất mát. Ông nói về chế độ kiểm duyệt: “Tôi tự hào rằng tôi đã là người chấm dứt nó. Nhưng tôi cũng là một con người. Văn phòng của tôi đã một thời đầy những cây viết, nhà văn, người làm xuất bản”. “Bây giờ thì văn phòng của tôi trông như một thành phố ma”. Ảnh: Ông Tint Swe đã là tổng kiểm duyệt gia cuối cùng của Myanmar – thế lực hùng mạnh đằng sau cỗ máy tuyên truyền khủng khiếp của quân đội. Nguồn: The New York Times

Ngày xưa ơi…

Ngày xưa ơi…
08:45 17 thg 9 2012Công khai70 Lượt xem 0

(Nhân kỷ niệm 22 năm ngày sinh nhật Báo Pháp luật TP.HCM)

DƯƠNG PHI ANH

Hình như “Ngày xưa ơi” là tên hoặc là câu đầu của một bài hát, thể hiện sự luyến tiếc cái gì đó của ngày xưa trong tình bạn, tình yêu…?! Nhưng đôi khi, cái “ngày xưa” ấy không chỉ đúng với tình cảm mà còn đúng đối với rất nhiều hoạt động trong xã hội. Trong hội họa, trong âm nhạc, trong Hiến pháp, pháp luật, trong quan hệ đồng nghiệp, đồng đội… Nhiều khi chúng ta thấy có nhiều người than rằng “Bao giờ mới được như… ngày xưa?”…
Sau lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật, mặc dù không muốn ai buồn trong không khí vui vẻ, không muốn nói để làm nhụt chí một số đồng nghiệp trẻ hay phê bình các “sếp” đang ngày đêm vật lộn để tìm lối ra tốt cho báo, nhưng trên tinh thần xây dựng, tôi muốn nêu thẳng thắn một số suy nghĩ của mình về một nơi mà tôi cũng như hàng triệu bạn đọc và những người đã “đào ngũ” (như tôi), những người “ra đi”, từng rất yêu thích, gắn bó…
Cái ngày xưa ấy, lúc lứa chúng tôi mới chập chững được đào tạo nghề tại báo, mặc dù báo mới thua kiện một công dân trong phiên tòa “đi vào lịch sử” Pháp luật TP.HCM, bị báo đồng nghiệp đánh hội đồng, nhưng sau đó lại thể hiện sự chuyển bộ, phát triển đến người khác phải “ngước nhìn”. Tuổi 13, 14 “dậy thì” ngày ấy, báo vừa nhạy bén, vừa có độ chín của những người được giáo dục một cách bài bản, nề nếp, trong sáng nên rất chín chắn trước sự kiện. Rất nhiều đề tài các báo phải khai thác lại từ Pháp luật TP.HCM và cũng rất nhiều vấn đề các báo, các nhà quản lý “nín thở” xem Pháp luật TP.HCM nói gì rồi mới tính tiếp…
Về số lượng, từ phát hành hai kỳ trong tuần với khoảng 50.000 bản, báo tăng lên ba kỳ, bốn kỳ và thành nhật báo. Thế mà số lượng lại tăng vùn vụt lên đến 100.000 bản – là bình thưòng, cao điểm lên đến 130.000 bản! Bây giờ, trong “tình hình khó khăn chung”, nhật báo thì vẫn còn nhưng số lượng phát hành như trên thì chắc chắn đang là “huyền thoại”… Thời đó, ngay cả phóng viên chứ không phải bạn đọc, ra sạp chậm chân là hết báo, lại tiếc hùi hụi. Chúng tôi vẫn nói đùa rằng “giống như không có mặt của tờ Pháp luật TP.HCM vì báo thì in “vừa đủ” mà sạp báo thì luôn hết sớm”…
Nhưng, điều đó không quan trọng bằng việc tác nghiệp của phóng viên, tòa soạn. Đồng nghiệp đối xử với nhau rất tình cảm, chân thành (bây giờ chắc cũng còn). Phóng viên của báo vẫn có truyền thống lao vào sự kiện một cách trong sáng, nhiệt huyết nhưng chín chắn và thận trọng nhất. Các vấn đề được tìm hiểu một cách kỹ lưỡng, không biết thì tìm mọi cách hỏi chuyên gia hết sức cầu thị để mang lại cho độc giả những kiến giải hợp lý nhất. Thường, rất nhiều vấn đề báo đưa ra với motip “có ý kiến cho rằng…” để kích thích sự tranh luận, phản biện nhưng sau đó bao giờ cũng có chính kiến của mình để bạn đọc rút ra được vấn đề…
Cũng nhờ được đào tạo ở Báo nên tôi có suy nghĩ là “đã làm báo thì không làm tiền, mà đã lo kiếm tiền thì không thể làm báo”, nên khi cần có cuộc sống ổn ổn chút, mà lo cho con cái nên tôi chọn con đường nghỉ báo, mở công ty. Tuy nhiên, tôi vẫn rất thích bàn luận các vấn đề xây dựng Báo. Cũng vì vậy, tôi thường gặp anh Năm Đồng. Nói thật không biết có mất lòng nhưng quả thật những kiểu làm báo hay như trên tôi đã nhắc tới sao bây giờ rất hiếm trên Pháp luật TP.HCM (thể hiện ngay trong không ít bài báo). Bài báo cũng đưa ra các vấn đề tranh luận nhưng trở thành “ba phải”, dẫn bạn đọc đến ngã ba và… cứ vậy, “muốn đi đường nào thì đi”! Đôi lúc, trong một số tin, bài, nhà báo còn sai cả khái niệm, hoặc chỉ trở thành những “thư ký” của sự kiện, bị cuốn vào sự kiện như những báo có tôn chỉ mục đích khác (có sao viết vậy), không đủ bản lĩnh “lội ngược dòng” – một thứ trở thành thương hiệu của Pháp luật TP.HCM… Nhiều vấn đề tưởng “đu trên dây” ngày đó đều được hóa giải một cách thông minh, nhẹ nhàng…
Rất nhiều vấn đề từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; từ các vấn đề hình sự, dân sự, hành chính…, mỗi khi báo phản ánh, báo phỏng vấn đều trở thành “cẩm nang” cho từ người dân “thấp cổ bé họng” đến các chuyên gia đầu ngành, các đại biểu Quốc hội, các nhà lãnh đạo để tự “soi vào” mà sửa sai, mà khắc phục khiếm khuyết, thay đổi quy định… Các vấn đề trong Luật tố tụng dân sự, hình sự, hành chính hay các vấn đề dân sinh như Luật Cư trú… đều có công phân tích không nhỏ của Báo. Có cảm giác, những người làm ở Báo Pháp luật TP.HCM ngày đó tuy nghèo mà sang vô cùng. Bây giờ, đa số những con người đó vẫn còn, đã sang trụ sở khang trang nhưng chưa chắc, dù rất cố gắng, dù đã “lên hết dây cót”, thì vẫn khó có thể có cảm giác của “ngày xưa” ấy…
Có lẽ khó khăn trong thời buổi kinh tế “chập chờn”, mạng méo lề phải, lề trái và các phương tiện truyền thông khác bùng nỗ, sự “nhạy cảm” trong tiếp thu chỉ đạo xử lý thông tin…, đã góp phần làm báo in trở nên vô cùng khó khăn. Đây cũng là tình hình chung, không riêng gì Pháp luật TP.HCM. Nhưng, nếu dễ dải đổ thừa cho hòan cảnh thì sẽ triệt tiêu động lực phát triển cho tờ báo. Tôi vẫn khắt khe và thích một câu cải lương trong vở “Tuyệt tình ca”, đại ý rằng: Hoàn cảnh, hoàn cảnh, mọi việc làm tồi tệ trên đời này người ta có thể đổ thừa cho hoàn cảnh! (Tất nhiên câu nói quá nặng đó chỉ đúng trong hoàn cảnh của vở cải lương là câu của người em phê phán chị mình khi biết chị làm gái – Nó không ăn nhập trong vấn đề báo chí này). Vì vậy, tôi muốn “nhìn thẳng vào sự thật” hơn…
Tôi nhớ, khi viết bài chia tay Nguyên TBT tài ba của báo, anh Nam Đồng (anh Năm), tôi có đề cập khá nhiều vấn đề, trong đó có câu “không khéo thì báo sẽ ngơ ngác trước thời thế mới, đóng của trong quán tính thành công cũ nên nhiều khi dị biệt so với bên ngoài”. Ngày đó, mặc dù làm đến mấy năm ở báo, góp ý nảy lửa mỗi buổi giao ban, thế mà sau này gặp lại, anh Nam Đồng, tôi vẫn thường nghe anh nói “ngày đó mày làm mảng nào mà tao không hề thấy, không hề biết mày là ai”? (Hiii). Tôi nói: “Tất nhiên có hai trường hợp mà anh sẽ nhớ. Một là chửi nhau thật đau với anh hoặc là nói “vừa lòng” sếp. Em làng nhàng, không thuộc hai trường hợp đó nên thậm chí anh không nhớ nổi tên em cũng đúng!”.
Hôm qua, cũng nhân mừng sinh nhật báo, tôi lại gọi điện mời anh Năm “làm vài ve”. Quả thật, tôi kính nể anh Năm vì lúc nào anh cũng trăn trở làm sao cho tờ báo tiến lên một cách vững chắc “trước thời thế mới”. Đôi lúc còn gặp thái độ này khác thì anh vẫn đau đáu mong làm sao hỗ trợ cho tòa soạn, Ban Biên tập của báo có những quyết sách đúng đắn, một sự đoàn kết, hy sinh bớt một số quyền lợi cá nhân, giảm “tư duy nhiệm kỳ” để đưa tờ báo đi lên… Trong câu chuyện, anh thẳng thắn nhìn nhận đúng là trước lúc nghỉ hưu, anh vẫn có một vài sai lầm trong hoạch định chiến lược cho báo, trong đó có phần nhân sự. Trong đó, một số trường hợp là do hoàn cảnh buộc anh phải làm như thế, như thế… Nhưng, anh cũng tự an ủi là “có lẽ do mình tự khắt khe thôi, chứ những con người ở Báo vẫn trong sáng và vững vàng chán so với tình hình chung”. Tôi cũng đồng ý với anh Năm điều đó!
Tôi nghĩ, anh Năm vẫn vậy, báo vẫn vậy, vẫn khá đúng so với những gì tôi viết hoặc nói trước đây. Rất…trong sáng! Đến giờ này rồi mà anh “vẫn đau đáu” chuyện sử dụng người của báo theo mô hình của các doanh nghiệp “phương Tây” là lạnh lùng cho nghỉ việc nếu không hoàn thành nhiệm vụ hay là theo mô hình Nhật Bản là chăm sóc nhân viên, kể cả người nhà thật tốt để mong sự cống hiến trung thành, ổn định. Anh kể, một lãnh đạo lớn của báo cũng thừa nhận là vừa “ngộ” ra điều đó…
Trở lại câu chuyện “ngày xưa”, không hiểu sao, trước đây tất cả các phóng viên khi có thông tin, khi có ai “cho” đề tài thì ngày lập tức tìm cách tiếp cận, phóng đến lấy hồ sơ, hỏi, cật vấn thật kỹ nhiều chiều rồi mới viết. Thế mà bây giờ, trừ một số người, rất hiếm thấy các bạn đồng nghiệp trẻ của báo làm như vậy. Đọc các bài báo, có cảm giác các bạn đến lấy hồ sơ hoặc nguồn tin gửi hồ sơ cho là viết và… “chúng tôi không cần hỏi gì thêm”! Thế mà sản phẩm lọt qua con mắt “cú vọ” của tòa soạn thì chứng tỏ các bạn giỏi hơn lớp chúng tôi ngày trước, rất nhiều! Trên “mặt trận” thông tin nóng, hiếm thấy hơn về sự “xuất hiện” các tin bài một cách hiên ngang của báo. Đặc biệt là các vấn đề nóng như vừa qua là nợ xấu ngân hàng, vốn chạy lòng vòng trong ngân hàng… Thực ra, thời gian qua báo cũng có không ít bài gây được tiếng vang, nhưng hình như tần suất “tự sướng” của bổn báo và của cả PV sau đó hơi nhanh so với sự kết thúc của sự kiện?!…
Tôi nghĩ rằng, muốn phát triển vững chắc của tờ báo, trước hết cần xác định được lợi thế cạnh tranh của mình là gì? Phải chăng với báo Pháp luật TP.HCM, xưa nay đã định hình là thế mạnh trong phản ánh để góp phần hoàn thiện, xây dựng pháp luật, chính sách và góp phần làm lành mạnh hóa các hoạt động trong xã hội. Những vấn đề thuộc nghiên cứu, định hướng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, lịch sử khác cũng làm sang trọng tờ báo hơn. Những vấn đề về cướp, giết hiếp, lộ hàng…, làm sao phản ánh mạnh bằng các tờ báo khác?! – Các loại tin như hành vi phạm tội bị mấy năm tù, mấy năm tù…; cách đặt tít dễ dải như “thổi hồn vào…”; “Người mang “cái gì đó” cho “cái gì đó””… cũng nên bỏ!…
“Phải làm sao” cho tờ báo này trở thành cẩm nang lưu trữ về lý luận, về pháp lý của các chuyên gia, các nhà quản lý, của người dân thì báo in vẫn có chỗ đứng lớn. “Phải làm sao, phải làm sao, phải làm sao…”, vẫn vang vọng trong tâm trí của cấp dưới, vẫn chưa dứt trong mệnh lệnh chỉ đạo của cấp trên! Nhưng xem ra “bao giờ cho được như… ngày xưa” vẫn là một trăn trở lớn?!…
Cứ mỗi dịp kỷ niệm là một dịp “ôn cố tri tân”, là dịp để nhớ lại những việc làm, những “thời oanh liệt ngày xưa”, những “công trạng” của báo thời gian gần, là để cho vài nhà lãnh đạo, vài chuyên gia nhận xét, góp ý trên mặt báo. Nhưng, “lối mòn” đó sẽ là một lực cản, “vị ngọt” đó sẽ trở nên ngán khi “đến hẹn lại lên” một cách làm cũ, sáo. Không ít trường hợp, Báo đang “dí” cho bạn đọc những thứ mình có chứ không phải thứ bạn đọc cần. Có nhiều khi là sự nhầm lẫn đến bảo thủ những thứ mà mình tưởng bạn đọc cần theo cảm tính của những trưởng trang, thư ký toàn soạn, phóng viên hoặc cấp trên hơn nữa. Vì vậy, không thấy “sợi chỉ” xuyên suốt trong mỗi trang mục của báo mà thấy đề tài phản ánh một cách manh mún, tủn mủn, rời rạc và vô cùng “tổng hợp”. Trong khi đó, những thứ như thế báo khác phản ánh hay hơn…
Quả thật, nhân ngày sinh nhật báo, cũng như vài ba năm về trước, chúng tôi luôn xem báo như mái nhà mặc dù đã nghỉ, nên sẵn sàng chạy về vui vẻ “sớt chuyện vui buồn”. Nhưng quả thật nhiều khi thấy khó khăn vì rất nhiều người mới hoặc có thể cả đồng nghiệp cũ bảo rằng “sao không mời mà đến”?… Nhiều người, cả anh Năm Đồng, bảo tôi ngày vui ấy là chung cần gì phải mời mà phải chạy về như một người có trách nhiệm, một bạn đọc yêu mến tờ báo. Nhưng thật tình là tôi đã suy nghĩ nhiều rồi và thấy như thế không ổn. Ngoài “miếng ăn” còn là văn hóa của người mời và danh dự của người được mời nữa. Sự quan tâm tới những người từng gắn bó còn thể hiện văn hóa cơ quan cũ nữa…
Mong trở lại với câu chuyện “ngày xưa”, tôi vốn không thể góp ý mà không thẳng thắn, nên rất mong mọi người thông cảm. Tôi quan niệm rằng những cái đạt được là quá khứ mà phải thấy được nhiều khó khăn đang dập dồn trước mắt. Lường hết khó khăn cũng sẽ giúp hạn chế rủi ro, vấp váp trong tương lai, nên tôi hay nói thẳng theo hướng “những cái chưa được”. Quả thật, theo cách hiểu của tôi, quản trị tờ báo đòi hỏi những người lãnh đạo phải có tầm nhìn của một nhà chính trị nhưng cũng cũng phải có cách làm của một nhà kinh doanh. Kinh doanh trong báo chí là một hàng hóa đặc biệt. Nếu không thấy lợi thế so sánh của mình để hoạch định đúng mà vẫn làm theo “quán tính cũ” thì sẽ vô cùng khó khăn. Nhất là trong xã hội thông tin, với thế giới thì “phẳng” mà mình thì lại phải “phẳng” trong “ao làng”, có bờ, có lề nghiêm chỉnh, chính thống…
Cũng như đội bóng, các sếp lãnh đạo nội dung như huấn luyện viên, trợ lý huấn luyện viên. Nhưng Ban Biên tập, đặc biệt là TBT là chủ của đội bóng, phải phối hợp nhịp nhàng với HLV trong việc mua hay bán cầu thủ, nhưng phải biết khai thác những lợi thế như quảng cáo, bản quyền… để mang thu nhập về. Hiện ở báo Pháp luật TP.HCM không thiếu các cầu thủ giỏi, thậm chí là ngôi sao ở tất cả các tuyến (tiền đạo, tiền vệ, hậu vệ, thủ môn). Nhưng, “phải làm sao” để phát triển?…
Có lẽ nhà báo Đoan Trang nói đúng: Trong tình hình khó khăn chung vẫn là cơ hội khẳng định mình, chứng tỏ được bản lĩnh của nhà báo, trong đó có Pháp luật TP.HCM…
Hãy đợi đấy… “ngày xưa ơi”!

TỰ THÂN NỖ LỰC VƯƠN LÊN…

TỰ THÂN NỖ LỰC VƯƠN LÊN…
01:39 15 thg 9 2012Công khai5 Lượt xem 0

DƯƠNG PHI ANH

Tôi thực sự quan tâm tới chuyến thăm chính thức Singapore của TBT Nguyễn Phú Trọng, bắt đầu từ 12/9/2012. Bởi vậy, tôi đã có bài “Mong ước nhỏ nhoi…” trước khi Ngài TBT lên máy bay ba ngày. Không cần quan tâm lắm tới các ngôn từ ngoại giao hay chuyện tiếp đãi theo nghi thức trọng thể nhất với quốc yến…, những hoạt động của Ngài TBT, theo tường thuật của các cơ quan truyền thông, tôi thấy đã “le lói” hy vọng những bước phát triển có tầm chiến lược cho VN trong những năm tới, sau chuyến đi này…
BBC cho biết, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã hết lời ca ngợi Singapore trong chuyến thăm đầu tiên của ông đến đảo quốc Đông Nam Á này. Trong đáp lời Thủ tướng Lý Hiển Long, Tổng bí thư Trọng đã ca ngợi nước chủ nhà là đã đạt được ‘những thành tựu vĩ đại’ và ‘tự thân vươn lên’.
“Tôi rất vui mừng lần đầu tiên đến thăm đất nước Singapore tươi đẹp và được chứng kiến những thành tựu vĩ đại của một đất nước đã tự thân nỗ lực vươn lên, đạt tới trình độ phát triển cao, trở thành một trung tâm kinh tế-tài chính, khoa học-công nghệ hàng đầu của khu vực và thế giới,” ông phát biểu.
BBC bình luận: Mặc dù những lời lẽ xã giao hoa mỹ như thế này là không có gì lạ trong các cuộc tiếp xúc ngoại giao, nó cũng cho thấy mức độ nào đó sự ấn tượng của vị tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam trước sự phát triển của Singapore.
Điều này được thể hiện trong các chuyến khảo sát của ông Trọng đến các cơ sở công nghệ và kinh tế hàng đầu của Singapore trong ngày thứ Năm 13/9.
TBT Trọng bày tỏ ‘ấn tượng’ trước sự phát triển của Singapore …
Tại cuộc hội đàm vào chiều tối ngày 12/9, Tổng bí thư Trọng và Thủ tướng Lý đã nhất trí sẽ nâng cấp quan hệ hai nước lên thành ‘đối tác chiến lược’ vào năm sau khi hai nước kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Theo đó, khuôn khổ quan hệ mới này sẽ cho phép hai nước mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, tài chính và cả quốc phòng, an ninh. Thủ tướng Lý Hiển Long đã cam kết sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam đào tạo cán bộ cao cấp…
Có lẽ, thông điệp trong câu nói của TBT cũng khá rõ ràng khi ông “hết lời khen” Singapore “tự thân nỗ lực vươn lên” để “đạt được những thành tựu vĩ đại”. Và, ông cũng đã thể hiện mong muốn hợp tác, học hỏi và nhận được sự giúp đỡ của Singapore trên các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, tài chính, cả quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, khi “Thủ tướng Lý Hiển Long đã cam kết sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam đào tạo cán bộ cao cấp” thì phải chăng chính là đào tạo để “chuyển giao” mô hình quản lý xã hội của Singapore cho VN?…
Xin mạo muội nhìn lại về TBT Nguyễn Phú Trọng một tý. Cũng như nhiều người, có lẽ “quá ấn tượng” với nguyên TBT Nông Đức Mạnh, nên tôi cũng nghĩ rằng ngay sau khi nhậm chức là TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ “khăn gói” sang Bắc Kinh. Tuy nhiên, ông sang Lào, một đất nước khá “thủy chung” với VN trước. Sau đó, ấn tượng nhất là ông đứng đầu trong chủ trương ban hành, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 “về cơ sở hạ tầng, và cuộc sinh hoạt chính trị đặc biệt nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng”. Theo Báo Thanh Niên, “tâm sự” với những trí thức đầy tâm huyết ở Singapore , TBT cho biết Nghị quyết TW4 “đang được thực hiện quyết liệt và đạt được sự đồng thuận cao, quyết tâm rất lớn, biện pháp tỉ mỉ, chu đáo”. Những động thái khôi phục Ban Nội chính Trung ương, nắm Trưởng Ban phòng chống tham nhũng để triệt phá các nhóm lợi ích; các nhóm đầu cơ chính trị; tay sai lũng đoạn, “cõng rắn cắn gà nhà”…, gần đây cho thấy những phát biểu của Ngài TBT là đáng tin vì có trọng lượng!
Tuy nhiên, việc “học hỏi” Singapore của VN sẽ vẫn còn những vướng mắc mang tính “căn cơ” mà nếu không nghiêm túc, không mạnh dạn “chịu đau” khắc phục thì cũng chỉ học… phần ngọn, mang tính “cưỡi ngựa xem hoa” mà thôi! Đó là, các vấn đề sở hữu tư nhân về đất đai; vấn đề về tự do báo chí và ngôn luận để nhà nước và công dân có những phản biện đa chiều, khách quan; vấn đề tự do lập hội và kích thích sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự để xã hội tự điều tiết việc quản lý trong lĩnh vực của mình tốt hơn, thay vì nhà nước phải ôm đồm tốn thời gian, tốn bộ máy và cả tốn ngân sách quản lý mà không hiệu quả; vấn đề hình thành cơ chế giám sát sự lạm quyền của các cơ quan quyền lực và cả cơ quan đảng một cách “không có vùng cấm” bằng các văn bản pháp luật rõ ràng và thực thi nghiêm túc; sự minh bạch, trung thực trong các thông tin của cơ quan nhà nước;…
Có lẽ, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu sẽ giúp VN các vấn đề này rất nhiều!
Tôi chỉ là người quan tâm, không phải là người nghiên cứu sâu nên không nói được sâu sắc. Mà nếu có nói sâu được thì cũng thích nói thẳng, nói thật theo đúng giọng “bản chất nông dân” của cách nghĩ nôm na mà thôi. Tôi cũng không thích bày tỏ chính kiến trong các vấn đề nên đa đảng, lưỡng đảng hay độc đảng chính trị ở đất nước VN. Đa đảng theo “màu sắc” của Singapore cũng chẳng khác nào độc đảng vì hàng chục năm nay (từ 1963), Đảng PAP mà ông Lý Hiển Long làm chủ tịch hiện nay vẫn luôn cầm quyền một cách “không đối thủ”…
Theo tôi, ai cầm quyền, ai lãnh đạo không quan trọng bằng việc họ “giúp” cho chúng tôi và mọi thành phần công dân khác, lớn hơn là cả đất nước này, tự thân nổ lực vươn lên, không phụ thuộc, ảnh hưởng của bất kể “diều hâu” nào, để được sống trong môi trường bình đẳng, dân chủ, độc lập, tự do, tiến bộ, văn minh…
Vì vậy, tôi vẫn thích câu nói của ông Lý Quang Diệu: “Người ta có thể nói đây là sự độc tài, nhưng mọi người đều có phần trong sự thịnh vượng chung của đất nước nên phải hiểu tại sao chúng tôi, Đảng PAP (ước gì thay từ PAP ở đây thành Đảng CSVN chẳng hạn – NV), luôn được dân bầu”…

HỆ THỐNG GIÁO DỤC TẠI MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975

HỆ THỐNG GIÁO DỤC TẠI MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975
23:00 13 thg 9 2012Cá nhân0 Lượt xem 0

Nhân bản, dân tộc và khai phóng

(Bài này trên blog Phạm Viết Đào, lưu trữ làm tư liệu tham khảo nghiên cứu giáo dục)

Nền giáo dục ở Miền Nam trước 1975 đặt trên 3 phương châm lớn, được ghi vào Hiến Pháp hẳn hoi: nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Giáo dục nhân bản lấy cá nhân làm trọng, nhấn mạnh đức dục, hướng đến phục vụ tha nhân. Giáo dục dân tộc bắt đầu từ chương trình Việt, xiển dương lòng ái quốc thương nòi. Giáo dục khai phóng mở mang kiến thức khoa học kỹ thuật, không ngại du nhập những nét hay, thế mạnh của Tây Phương.Những bước ban đầu

Một cuộc mít tinh của phụ nữ thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Triết lý giáo dục đó giúp học trò thăng hoa, lòng sáng tạo được khích lệ, tự do cá nhân được nâng đỡ — là nguyên do chánh khiến các ngành nghệ thuật, văn thơ hội hoạ phát tiết tài hoa, để lại hằng ngàn tác phẩm vài chục năm sau vẫn mê hoặc hồn người. Còn vài đóng góp sáng giá khác mà chúng tôi sẽ thử nêu ra trên trang báo này. Cần ghi nhận nền giáo dục đại học thời VNCH được hoàn toàn tự trị. Các việc ngân sách, nhân sự, học vụ… đều không bị giới chánh trị chi phối. Theo thời thế, có nỗ lực canh tân, chuyển dần từ cách dạy và học của người Pháp sang phương pháp thực nghiệm chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ. Một điểm đặc sắc rất riêng của nền giáo dục VNCH là sự ổn định của chương trình đức dục/công dân giáo dục, từ bậc tiểu học lên đến trung học. Tính nhân bản và hiệu quả của chúng đã được chứng thực qua thời gian. Một phần thậm chí đang được… copy dùng lại ở VN hiện nay.

Thầy trò tiểu học thời VNCH.
Các bậc học
Hiếp pháp VNCH cũng quy định nền giáo dục toàn dân, miễn phí đến hết bậc Trung Học. Theo các số liệu còn lại, vào đầu thập niên 1970, cả nước có khoảng 5,200 trường tiểu học với 2.5 triệu học trò. Cùng thời điểm này, có trên 530 trường trung học và hơn 550,000 học sinh trung học. Đến niên học cuối cùng 1975, toàn quốc có 900,000 học sinh trung học. Cùng lúc ở bậc đại học, khoảng 167,000 sinh viên ghi danh học. Ngoài ra, thời VNCH còn có hệ thống “Bách Khoa Bình Dân” với học phí thấp, thậm chí miễn phí. Đây là các trung tâm huấn nghệ ngắn hạn, dành cho học trò hoàn cảnh cơ cực không thể tiếp tục lên đại học, hoặc giới thợ thuyền đầu tắt mặt tối, kể cả cựu quân nhân, v.v…

Sách giáo khoa của Bộ Giáo Dục

Hệ thống trường
Một điểm độc đáo của nền giáo dục VNCH là sự nức tiếng của các trường trung học công lập. Nhiều trường đến nay vẫn còn dư âm. Có thể kể Trung Học Quốc Học (Huế), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ), Võ Trường Toản (Sài Gòn). Trường nữ lả lướt những Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt… Bên nam danh tiếng chưa phai mờ những Chu Văn An, Pétrus Ký… Những nơi này cho ra lò không ít yếu nhân của xã hội Miền Nam thời đó. Hệ thống đại học công lập VNCH cũng lẫy lừng không kém. Nổi bật là Viện Đại Học Sài Gòn lớn nhất xứ sở. Có lúc nơi này thu hút đến 70% sỉ số sinh viên cả nước. Ngoài ra có thể kể thêm Viện Đại Học Huế (1957), Viện Đại Học Cần Thơ (1966)…

Viện Đại Học Sài Gòn
Trong hoàn cảnh giáo dục tự trị, hoàn toàn tự do, các viện đại học tư thục cũng được mùa… trăm hoa đua nở. Viện Đại Học Đà Lạt của Công Giáo rất mạnh, cho ra trường hơn 25 ngàn sinh viên trong 2 thập niên hoạt động. Bên Phật Giáo có Viện Đại Học Vạn Hạnh, thiết lập năm 1964, nằm trên đường Trương Minh Giảng Quận 3. VNCH còn có 2 học viện rất nổi tiếng khác, với vai trò khá đặc biệt. Học Viện Quốc Gia Hành Chánh thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam (1950), trường sở đặt ở Đà Lạt, sau dời về đường Trần Quốc Toản, Quận 10 Sài Gòn. Trường này chú trọng huấn luyện các chuyên viên hành chánh và công quyền, bao gồm thuế vụ và ngoại giao. Ngôi trường kia là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Võ Bị huấn luyện sinh viên sĩ quan, ra trường như một Cử Nhân Võ Khoa — đa phần sau này trở nên các cấp chỉ huy can trường trên trận địa, giúp giữ gìn bờ cõi trong cuộc chiến chống giặc thù cộng sản xâm lăng từ phương Bắc.

Viện Đại Học Vạn Hạnh

Một trong những ưu thế của VNCH là được nhiều nước bạn đồng minh yểm trợ. Ngành giáo dục non trẻ cũng được nâng đỡ theo. Chánh phủ New Zealand từng giúp xây Trường Đại Học Khoa Học thuộc Viện Đại Học Sài Gòn. Người Pháp cố vấn về phát triển nhân sự, cũng như cấp nhiều học bổng du học. Tây Đức yểm trợ việc kiến thiết và trao tặng thiết bị cho 1 trường trung học kỹ thuật. Trợ giúp lớn nhất thuộc về Hoa Kỳ, từ ấn loát sách giáo khoa đến xây trường trại. Đầu 1970, Hoa Kỳ chuyển dàn máy móc IBM thế hệ mới nhất để Bộ Giáo Dục sử dụng chấm bài thi trắc nghiệm kiểu Mỹ (bài thi vì vậy thường gọi là “Thi IBM”).
Những năm cuối cùng của Miền Nam tự do cũng là lúc manh nha chương trình đại học cộng đồng, dựa theo mô hình “Community College” của Mỹ. Chú trọng 2 năm sơ cấp đại học, một phần chương trình nhắm vào giới cựu chiến binh, cần trang bị kiến thức cập nhật. Cũng có một dự án giàu tham vọng khác là Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (1973) mô phỏng trường Đại Học Cal Poly (California Polytechnic State University). Mặc dù còn khiêm tốn, từ những cơ sở giáo dục này, đã manh nha nhiều tạp chí chuyên sâu, mang ít nhiều dáng dấp sinh hoạt hàn lâm. Có thể kể: tạp chí “Acta Medica Vietnamica” của trường Dược; “Luật Học Kinh Tế Tạp Chí” của trường Luật; tập san “Nghiên Cứu Hành Chánh” của trường Quốc Gia Hành Chánh; tập san “Nghiên Cứu Sử Địa” của Văn Khoa Sài Gòn; tạp chí “Đại Học” của Viện Đại Học Huế, v.v… Cũng có một số thử thách, trì hoãn phần nào đà tiến triển của nền giáo dục đại học VNCH. Thứ nhất là ảnh hưởng của lối Tây học có phần bảo thủ. Thứ nhì, chiến cuộc ngày càng ác liệt. Thứ ba, tình trạng thiếu giáo sư. Không ít giáo sư đứng lớp ở nhiều trường khác nhau. Trong khi đó, một số đậu tiến sĩ ở ngoại quốc lại tránh hồi hương vì xáo trộn chánh trị.
Người muôn năm cũ
Không hiếm giáo sư lỗi lạc trong lớp trí thức Miền Nam hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà. Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục góp công gầy dựng Đại Học Văn Khoa từ thời 1940-1950. Giáo Sư Phạm Công Thiện lúc ra mắt chưa tới 30 tuổi. Ngành Y lừng danh Giáo Sư Phạm Biểu Tâm. Bên Toán có các Giáo Sư Đặng Kế Viêm, Đào Văn Dương. Triết Học có thầy Trần Bích Lan (Nguyên Sa thi sĩ). Quốc Văn có thầy Trần Trọng San. Anh Văn có soạn giả Lê Bá Kông & Lê Bá Khanh. Tiến Sĩ Đỗ Bá Khê –Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên– là người có công khai sinh hệ thống đại học cộng đồng.Miền Nam lúc đó xuất hiện lượng trí thức Tây học đông đảo chưa từng thấy. Họ có đầu óc độc lập, lại chịu dấn thân phát triển nước nhà. Chính họ góp phần đưa VNCH lên vị thế lò đào tạo 3/4 số kỹ sư trong toàn vùng Đông Nam Á. Quan trọng hơn, họ giúp tạo nên một lớp người sống thượng tôn luật pháp, trọng thị Tổ Quốc, nặng lòng với giống nòi.

Giáo Sư Phạm Biểu Tâm (phải) và các sinh viên.

Công trình dang dở

Nếu có hoàn cảnh thuận lợi, có lẽ thế hệ trí thức quốc gia đã mang lại nhiều thăng hoa cho xứ sở. Tiếc thay, sau một cuộc biến động lịch sử, họ phải gánh chịu nhiều trả thù ác hiểm. Tổng Trưởng Giáo Dục từ thời Quốc Gia Việt Nam, Phan Huy Quát, đi đày đến mất mạng trong nhà giam đảng cộng sản. Tổng trưởng Văn Hóa, Giáo Dục và Thanh Niên, Ngô Khắc Tĩnh cũng mắc kẹt 13 năm tù “cải tạo”.

Tiếc cho vận nước ngặt nghèo. Tiếc cho người Việt quốc gia đứt đoạn cơ hội vươn mình thành một minh châu trời Đông. Tiếc vì hoa quả giáo dục Miền Nam chưa kịp chín đượm thì nước Việt Nam Cộng Hòa bị kết liễu năm 1975. Dù sao, nét giáo dục nhân bản của VNCH vẫn kịp để lại một dư hương khó phai. Sau 37 năm, ngay cả một số đảng viên cộng sản cũng thừa nhận sự vượt trội của đường lối giáo dục VNCH đối với nền giáo dục xã hội chủ nghĩa tại VN ngày nay.

Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.

Hiếp pháp VNCH cũng quy định nền giáo dục toàn dân, miễn phí đến hết bậc Trung Học. Thực tế không đủ trường nên muốn vào trường công phải thi tuyển.
Ngoài ra nhiều gia đình muốn con em học thêm giáo lý tôn giáo nên trả học phí để học các trường tư thục của các tôn giáo.

HỌC LÀM NGƯỜI

HỌC LÀM NGƯỜI
22:44 13 thg 9 2012Công khai4 Lượt xem 0

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.

Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư. Thưa thầy nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

1. Thứ nhất , “học nhận lỗi”.

Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

2. Thứ hai, “học nhu hòa”.

Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.

3. Thứ ba, ” học nhẫn nhục”.

Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

4. Thứ tư, “học thấu hiểu”.

Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?

5. Thứ năm, “học buông bỏ”.

Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!

6. Thứ sáu, “học cảm động”.

Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.

7. Thứ bảy, “học sinh tồn”.

Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

(Theo blog Nhà văn Phạm Viết Đào)

MONG ƯỚC NHỎ NHOI…

MONG ƯỚC NHỎ NHOI…
13:25 9 thg 9 2012Công khai13 Lượt xem 2

DƯƠNG PHI ANH

Theo thông tin, ngày 14-09-2012, TBT Nguyễn Phú Trọng sẽ có bài phát biểu tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore, với chủ đề “Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á”. Ước gì, “nhân tiện”, GS Nguyễn Phú Trọng cho nghiên cứu, học tập, áp dụng những vấn đề cơ bản trong mô hình quản lý của đất nước Singapore cho VN, để đưa đất nước đi lên. Vì xem ra, giữa Singapore và VN có nhiều điểm “tương đồng” hơn ai cả (?!).

Thực tế, việc này không phải quá khó nhưng là sự đột phá, mà nếu làm tốt thì Ngài TBT và các cộng sự chắc chắn sẽ được lịch sử ghi công. Vì:

Ở đó ( Singapore ), kể từ khi tách khỏi Malaysia vào năm 1963, về thể chế chính trị, là cộng hòa thủ tướng. Nghĩa là, có nguyên thủ quốc gia là Tổng thống nhưng chỉ mang tính biểu tượng quốc gia, hầu hết các quyền điều hành đất nước đều nằm trong tay thủ tướng (giống của Cộng hòa Liên bang Đức – Thủ tướng VN hiện nay cũng có nhiều quyền lắm lắm). Từ đó đến nay, tiếng là đa đảng nhưng Đảng Nhân dân Hành động (People’s Action Party – PAP) của ông Lý Quang Diệu luôn cầm quyền. Nhưng, đại đa số người dân Singapore luôn thấy hài lòng vì được nhà nước, cụ thể là người của Đảng PAP, phục vụ tốt nhất. Đời sống người dân cao vào hàng đầu thế giới, xã hội công bằng, dân chủ… Đảng PAP đã rất thành công trong việc thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài, tin tưởng kêu gọi người dân đoàn kết xây dựng đất nước giàu mạnh. Người dân luôn tự hào, ý thức dân tộc cao. Họ cũng không hề có chuyện kỳ thị tôn giáo, sắc tộc…

Nói như ông Lý Quang Diệu thì: “Người ta có thể nói đây là sự độc tài, nhưng mọi người đều có phần trong sự thịnh vượng chung của đất nước nên phải hiểu tại sao chúng tôi, Đảng PAP, luôn được dân bầu”…

Ở đó, người dân được thực hiện đầy đủ trên thực tế các quyền tự do, dân chủ (không phải quyền trên “giấy” hay từ các lời lý luận suông). Cụ thể là quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến…, trên các phương tiện vào loại hiện đại nhất như báo chí và các diễn đàn. Không những hệ thống truyền thông, báo chí phát triển tự do, hiện đại mà còn có sự ghi nhận ý kiến người dân qua các diễn đàn. Hàng tuần, đại diện chính phủ đến từng địa điểm quy định để ghi nhận, tổng hợp ý kiến góp ý, phê bình các cơ quan , cá nhân thuộc địa phương, chính phủ một cách tôn trọng nhất. Việc giải quyết mọi thắc mắc được công khai trong thời gian sớm nhất. Không có chuyện lực lượng an ninh “me” những người phát biểu nghịch nhĩ để đưa vào tầm ngắm “phản động”, “diễn biến hòa bình”…

Ở đó, nhà nước đúng là người làm thuê cho nhân dân một cách tận tụy nhất. Thủ tướng là người có thực quyền nhưng với quy định pháp luật chặt chẽ; cùng với sự minh bạch thông tin; cùng với phương thức tuyển chọn nhân tài một cách công bằng, khách quan; cùng với những thiết chế khác (như tôn giáo, gia đình chẳng hạn) đã phát huy tối đa danh dự, liêm sĩ…, nên Thủ tướng và các cơ quan thuộc chính phủ từ trung ương xuống cơ sở gần như không có chuyện tham ô, những loạn, lãng phí. Về ít tham nhũng nhất thì Sigapore là nước đứng thứ hai châu Á (sau New Zealand ). Lương “cán bộ” luôn được điều chỉnh cao hơn thu nhập của một người trung bình khá làm việc ở ngoài khu vực nhà nước. Vì vậy, hầu hết “cán bộ” Singapore quan niệm được đứng trong đội ngũ phục vụ nhân dân theo khả năng, điều kiện của mình là hết sức danh dự, không phân biệt cấp thấp hay cấp cao…

Ở đó, cũng có chuyện “cha truyền con nối” khi ông Lý Hiển Long, Thủ tướng đương chức, là con của ông Lý Quang Diệu. Nhưng, hầu như người dân không mấy phàn nàn về điều này. Bởi cơ chế chọn nhân tài một cách bình đẳng, không phân biệt thành phần, không có chuyện nhờ quen biết, móc nối, bao che. Thực tế cuộc sống đã cho phép người dân tin tưởng, tôn trọng người lãnh đạo của mình là vậy! Ông Lý Hiển Long đã thể hiện là không ỉ lại mình là con trai của nhân vật vĩ đại khai quốc công thần của đất nước để mà “thích làm gì thì làm”. Trong công việc, ông không những thể hiện “chuẩn” của một thủ tướng giỏi, mà còn là người có tầm “đi trước” thời đại bằng việc rất sớm cổ xúy, ủng hộ mạnh mẽ các mạng xã hội như facebook, Yahoo… Vì nhờ đó, ông biết được tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng người dân, phát huy mạnh dân chủ. Mới đây thôi, ngay tại Trung Quốc, ông Lý Hiển Long chỉ cần một câu nói mà làm cho giới lãnh đạo TQ và hầu hết các nước Đông Nam Á “cân não”. Đó là, khi thấy TQ ngày càng hung hăng, ông nói đại ý rằng: TQ không nên thấy Hoa Kỳ đang có vẻ yếu đi mà xem thường, lấn tới, mà phải thấy rằng Hoa Kỳ luôn có những cách xoay chuyển tình thế một cách ngoạn mục. Câu nói đó vừa tỏ ra rất chân thành, rất ngoại giao nhưng cũng là lời cảnh báo mạnh mẽ đối với TQ…

Cố vấn cao cấp Lý Quang Diệu nói đại ý: Rất quan trọng là phải có một chính phủ không tham nhũng để điều hành đất nước. Khi có một chính phủ tham nhũng vận hành đất nước thì… cả một hệ thống bị hỏng”… Ông còn nói thêm: “Bất kể anh là người thuộc chủng tộc nào, anh nói ngôn ngữ gì hay theo tôn giáo nào…, chúng tôi dành cơ hội bình đẳng cho mọi người về trường học, y tế và cả cuộc sống. Mọi người đều bình đẳng và có chung cơ hội như nhau…

Ở đó, chính sách quan trọng nhất mà VN nên học là quyền sở hữu tư nhân về đất đai được ghi nhận. Tất cả các nước văn minh đều vậy cả mà có người dân nào “làm khó” nhà nước khi phải trưng dụng đất của người dân để phục vụ các công trình công cộng (chẳng hạn) đâu?! Không những thế, việc quản lý của nhà nước hết sức dễ dàng khi quy định quyền lợi giữa nhà nước, tổ chức kinh doanh và người có đất một cách rõ ràng, minh bạch, bình đẳng và có giá trị bắt buộc về quyền và nghĩa vụ các bên, mỗi khi đất của người dân được trưng dụng, thu hồi phục vụ cho dự án. Người ta nói rằng, người dân Singapore, nhất là dân nghèo, rất thích được “trưng dụng” đất đai do mình sở hữu vì được bồi thường cao hơn rất nhiều giá trị thực của khu đất mà mình đang sở hữu. Mỗi lần “được” thu hồi là “đổi đời” thực sự về nghề nghiệp, sinh hoạt cuộc sống…

Ở đó, ngoài chính sách đối ngoại “làm bạn với các nước, không phân biệt chế độ chính trị” thì họ vẫn có một đồng minh tin tưởng, không bao giờ rình rập mọi cơ hội để xâm lược, lấn chiếm lãnh thổ Singapore . Cái hay của họ là chọn đúng đồng minh, đối tác chiến lược… Ngay từ đầu, các nhà lãnh đạo Singapore xác định sự phát triển Hạm đội 7 của Hoa Kỳ vào loại hiện đại và mạnh nhất thế giới, cho phép họ đồn trú tại Singapore sẽ đảm bảo hòa bình, ổn định không những cho Singapore mà còn cả khu vực trước “diều hâu” nước “lạ”…

Ai cũng biết, Singapore trở thành một quốc gia thịnh vượng, có nền dân trí cao, y tế và giáo dục phát triển hiện đại, rất ít tham nhũng và là một trong những nước sạch sẽ, cơ sở hạ tầng hiện đại hàng đầu thế giới. Hình như, họ cũng rất có cảm tình với đất nước VN (nghe đâu dòng họ của ông Lý Quang Diệu là người Hoa ở Chợ Lớn). Ngay từ những ngày đầu VN đổi mới, ông Lý Quang Diệu, là thủ tướng Singapore lúc đó, rất tích cực cố vấn, giới thiệu người cố vấn cho VN cùng phát triển trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, quản lý đô thị, truyền thông…). Tuy nhiên, cả chục năm sau đó ông không sang thăm VN nữa nhưng vẫn nắm rất chắc thông tin từ VN. Khi có tín hiệu “khởi sắc” từ đầu nhiệm kỳ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Lý Quang Diệu lại sang thăm. Trả lời phỏng vấn báo chí trong chuyến thăm đó, ông nói đại ý rằng: Thời kỳ đầu của đổi mới, VN rất biết lắng nghe những tư vấn đúng. Nhưng sau đó thì lại không chịu nghe nữa, cứ “làm theo cách của mình” nên biết rằng có thăm, có nhiệt tình tư vấn thì cũng không được tôn trọng, chẳng giải quyết được gì hay ho. Lần này thấy có “tín hiệu tốt” nên lại sang thăm…

Nhưng, những động thái sau đó không lâu, ông Lý Quang Diệu lại thể hiện không muốn thăm nữa…! Chắc ông cũng hiểu về “tư duy nhiệm kỳ” tại VN như Ngài TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu sau ngày nhậm chức không lâu (?!).

Dù muốn thừa nhận hay không thì thực tế Đảng Cộng sản VN (có thời kỳ là Đảng Lao động VN) đã từng được rất nhiều người dân ủng hộ. Việc hy sinh cho quyền lợi dân tộc, quốc gia, cho sự tiến bộ của người dân vẫn là một truyền thống không thể phủ nhận của đại đa số các đảng viên chân chính. Vì vậy, hy vọng việc tiếp tục hy sinh, “lùi lại” về mặt quyền hành cho quyền lợi, cho sự tiến bộ dân tộc, quốc gia của Đảng Cộng sản VN vẫn là một vấn đề cần thiết. Chỉ có điều là chọn mô hình, phương pháp nào để thực hiện, bắt buộc thực hiện trên cơ sở bình đẳng của pháp luật là hết sức quan trọng. Điều này không thể nói với nhau bằng sự vận động, tự giác một cách cảm tính, thiên lệch. Hiệu quả chỉ có thể được tạo ra từ đặt ra một cơ chế và vận hành nghiêm túc, đúng đắn chứ không thể từ hàng “mớ” lý luận trên giấy, trên “lời nói gió bay” và việc thực thi một cách đối phó, mị dân, hình thức, qua loa, xuê xoa…

Là giáo sư chuyên về lý luận, chắc Ngài Tổng Bí thư hiểu điều này hơn ai cả (?!)…

Bẫy Việt Vị của Thủ Tướng

Bẫy Việt Vị của Thủ Tướng
07:20 7 thg 9 2012Cá nhân3 Lượt xem 0

đăng bởi Osin HuyDucvào ngày 7 tháng 9 2012 lúc 6:26 ·

Osin Huy Đức

Ủy ban Tài chính của Quốc hội cần yêu cầu Ngân hàng Nhà nước công bố danh sách các tổng công ty, tập đoàn nhà nước đã mở tài khoản và ồ ạt chuyển một lượng tiền lớn vào VietCapital Bank ngay sau khi con gái của Thủ tướng, bà Nguyễn Thanh Phượng, thôn tính ngân hàng này từ tên gốc của nó là Gia Định. Những con số ấy có thể là một ví dụ thú vị về “lợi ích nhóm” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc tới trong đợt kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương Bốn. Nhưng, quan trọng hơn, Quốc hội cần biết công cụ chủ đạo của nền kinh tế đang được sử dụng như thế nào.

Kinh Doanh Đa Ngành

Ý tưởng thành lập tập đoàn không chỉ đến từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng, cần có đủ thông tin để phân biệt mô hình tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng với mô hình tập đoàn áp dụng từ những người tiền nhiệm.
Năm 1994, khi những nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân chững lại vì bị các nhà lý luận “cánh tay phải” của ông Đỗ Mười như Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình, coi là chệch hướng. Sau Hội nghị giữa nhiệm kỳ, 1-1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký hai quyết định thành lập tổng công ty 90, 91. Trong đó, quyết định 91 có nói đến “thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh”.
Ý tưởng thành lập tập đoàn là từ ông Đỗ Mười với quan niệm nền kinh tế cần những quả đấm thép. Nhưng cả ông Kiệt và nhiều ủy viên bộ chính trị đều tán thành. Lúc ấy, hơn một nửa ủy viên bộ chính trị đã được đưa tới Hàn Quốc tham quan và gần như ai cũng choáng ngợp mô hình Cheabol của họ.
Nhưng, từ 1994 cho đến 2005, chưa có tập đoàn nào được thành lập theo quyết định 91. Cuối nhiệm kỳ thứ II, Thủ tướng Phan Văn Khải cho lập 3 tập đoàn: Ngày 26-12-2005, tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam; Ngày 09-01-2006, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông; Ngày 15-5-2006, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin.
Thủ tướng Phan Văn Khải thừa nhận, ông là người quyết định cho Vinashin vay 700 triệu USD từ tiền bán trái phiếu chính phủ. Ông Khải cho rằng, Việt Nam, một nước có hơn 3000 km bờ biển không thể không phát triển ngành vận tải biển. Suy nghĩ về tiềm lực biển của ông Phan Văn Khải không sai nhưng đầu tư bằng tiền cho quốc doanh không phải là một cách làm tốt. Nhưng, sự sụp đổ của Vinashin bắt đầu từ khi tập đoàn này được phép kinh doanh đa ngành.
Trước Đại hội Đảng lần thứ X, ông Nguyễn Tấn Dũng được giao làm Tổ trưởng biên tập báo cáo kinh tế của Ban chấp hành Trung ương trước Đại hội. Ông đòi ghi vào báo cáo chủ trương cho doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh đa ngành. Các thành viên trong tổ phản đối vì điều này ngược với quan điểm phát triển doanh nghiệp nhà nước xác lập từ thời thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thay vì tiếp thu, ông Nguyễn Tấn Dũng đã viết ra giấy, buộc các thành viên trong tổ phải ghi vào Báo cáo kinh tế nguyên văn: “Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”.
Nguyễn Tấn Dũng nhận chức thủ tướng ngày 27-6-2006. Ngày 29-8-2006, ông cho ngành dầu khí được nâng lên quy mô tập đoàn; Ngày 30-10-2006 ông cho thành lập thêm Tập đoàn Công nghiệp Cao su… Tốc độ thành lập tập đoàn có chững lại sau khi ông Võ Văn Kiệt khuyến cáo tính ít hiệu quả của mô hình này trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 26-7-2007.
Ông Võ Văn Kiệt mất gần 11 tháng sau đó và từ đó cho đến năm 2011, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đẩy con số tập đoàn từ 5 lên tới 13. Nhưng, không phải số lượng các tập đoàn mà số lượng ngành nghề mà các tập đoàn này được làm mới là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp nhà nước và nền kinh tế đến bên bờ vực. Rất nhiều tập đoàn có ngân hàng, công ty tài chính và chúng ta có thể nhìn thấy đất của Vinashin ở sâu trong đất liền và hầu như không có tỉnh nào không có một tòa PetroLand mọc lên dưới thời Đinh La Thăng.

Đại Nhảy Vọt

Không có một vị thủ tướng nào thừa kế một cơ ngơi có thể ngồi mát ăn bát vàng như Nguyễn Tấn Dũng: Tốc độ tăng trưởng cao, lạm phát thấp; lần đầu tiên Việt Nam có dự trữ ngoại tệ lên tới 23 tỷ đô la; đặc biệt, chính phủ Phan Văn Khải đã hoàn tất đàm phán để Việt Nam chỉ cần làm thủ tục kết nạp là trở thành thành viên WTO. Nhưng, ngôi nhà tưởng là vững chãi ấy đã bị đốt cháy chỉ hơn một năm rưỡi sau đó.
Thoạt tiên, khu vực kinh tế nhà nước được Nguyễn Tấn Dũng sử dụng như một công cụ để thúc đẩy tăng trưởng. Ông Phan Văn Khải nói: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn tạo ra một thành tích nổi bật ngay trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, muốn hoàn thành kế hoạch 5 năm chỉ trong 4 năm. Ngay trong năm 2007, ông đầu tư ồ ạt. Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra. Bội chi ngân sách lớn, bất ổn vĩ mô bắt đầu”.
Thời Thủ tướng Phan Văn Khải, mỗi khi tổng đầu tư lên tới trên 30% GDP là lập tức Thủ tướng được báo động. Trước năm 2006, năm có tổng đầu tư lớn nhất cũng chỉ đạt 36%. Trong khi, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ngay sau khi nhận chức đã đưa tổng mức đầu tư lên 42% và đạt tới 44% GDP trong năm 2007. Năm 2006, tăng trưởng tín dụng ở mức 21,4% nhưng con số này lên tới 38,7% trong năm 2007. Kết quả, lạm phát cả năm ở mức 12,6%. Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã gần như hốt hoảng. Những cú shock được áp dụng sau đó đã làm cho nền kinh tế trở nên vô phương cứu chữa.
Đầu quý I-2008, khi con số lạm phát lên tới gần 3% mỗi tháng, thay vì chẩn bệnh để có phương thuốc đúng, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã buộc các ngân hàng nâng mức dự trữ bắt buộc từ 10 lên 11%, các ngân hàng nháo nhào tìm kiếm thêm 20.000 tỷ khiến lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng mấy ngày cuối tháng 1-2008 tăng vọt lên tới 27%, trong khi đầu tháng, con số này chỉ là 6,52%.
Ngày 13-2-2008, Ngân hàng Nhà nước lại ra quyết định, buộc các ngân hàng thương mại phải mua một lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỉ đồng. Cung tiền ngay lập tức lên tới hơn 40.000 tỉ đồng đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng công ty nhà nước rút tiền, đang cho vay lãi suất thấp ở các ngân hàng quốc doanh, gửi sang ngân hàng cổ phần.
Chỉ trong ngày 18-2-2008, các tổng công ty nhà nước đã rút ra hơn 4.000 tỉ đồng. Các ngân hàng quốc doanh, vốn vẫn dùng những nguồn tiền lãi suất thấp từ nhà nước đem cho các ngân hàng nhỏ vay lại. Nay thiếu tiền đột ngột, vội vàng ép các ngân hàng này, rút về. “Cơn khát” tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên ngân hàng trong những ngày này có khi lên tới trên 40%.
Lãi suất huy động tăng, đã khiến cho các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều ngân hàng buộc khách hàng chấp nhận lãi suất cho vay 24 – 25%. Các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ đã làm cho lạm phát ba tháng đầu năm 2008 lên tới 9,19%. Ngày 25-3-2008, ngân hàng Nhà nước lại khiến cho tình trạng khan hiếm tiền mặt thêm nghiêm trọng khi yêu cầu thu về 52.000 tỉ đồng của ngân sách đang được đem cho các ngân hàng quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm.
Từ mức trên 1000, ngày 6-3-2008, chỉ số VN-index xuống còn 611. Cho dù Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cố dùng uy tín chính trị của mình để cứu vãn bằng cách tuyên bố rằng, “đầu tư vào chứng khoán bây giờ là thắng” vì VN-index đã xuống đến đáy. Nhưng, những ngày sau đó, VN-index liên tục lập đáy mới: Ngày 25-3-2008, 492 điểm; Ngày 5-12-2008, 299 điểm.
Chính những “đại gia” gần gũi thủ tướng nhất lại “chết” đau thương nhất vì họ đã từng được vay tiền dễ dàng, có dự án dễ dàng, kể cả các dự án trong khu vực chuẩn bị sáp nhập về Hà Nội. Từ năm 2008, mỗi năm các đại gia này đã phải chịu lãi suất 24-25%/ năm chưa kể những khoản lót tay, trong khi giá trị các dự án chỉ có thể bán được phân nửa so với thời 2007. Thay vì tìm một lối thoát cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực tài chính ngân hàng, giai đoạn tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu trúc nợ lại là một cơ hội kiếm tiền cho nhiều đại gia thân hữu mới.
Tham nhũng chưa phải là vấn đề lớn nhất dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chính phủ Thủ tướng Phan Văn Khải đã từng rất nỗ lực để tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải đã sát cánh nhiều năm với Tổ thi hành Luật Doanh nghiệp. Hơn 500 loại giấy phép đã bị Thủ tướng Phan Văn Khải bãi bỏ. Khi ông Khải rời nhiệm sở, Tổ công tác tiếp tục đề nghị bãi bỏ thêm hàng trăm giấy phép con. Nhưng, thay vì ra quyết định, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã giải tán Ban nghiên cứu và để cho các loại giấy phép lại mọc lên như nấm.
Có lẽ một người được coi là bảo thủ như ông Đỗ Mười cũng không thể nào ngờ có ngày “hậu duệ” của mình lại ký lệnh tái độc quyền nhà nước đối với vàng. Nhà nước đã từng độc quyền vàng, những người sở hữu từ 2 chỉ trở lên từng bị coi là bất hợp pháp. Ngày 24-5-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ký Quyết định 139, cho phép tư nhân mở tiệm vàng với điều kiện chỉ cần ký quỹ 5 lượng. Chỉ sau hai tháng cả nước có tới 400 tiệm vàng. Quyết định của ông Đỗ Mười được đưa ra như là một giải pháp cộng hưởng để chống lạm phát.
Trong suốt 23 năm tồn tại của Quyết định 139 nền kinh tế chưa bao giờ đổ tội lạm phát cho vàng. Vậy mà bất lực trước khủng hoảng kinh tế, ngày 25-5-2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký nghị định 24, giành lấy quyền sản xuất vàng miếng cho nhà nước và buộc doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng phải có vốn trên 100 tỷ đồng.
Lẽ ra ông Trương Đình Tuyển phải từ chức đứng đầu nhóm 13 người tư vấn sau khi một quyết định như thế ra đời. Bỏ qua các động cơ trục lợi, Nghị định 24 là vi hiến vì nó làm cho vàng miếng không phải SJC của người dân tự nhiên mất giá. Đặc biệt, nó đi ngược lại các cam kết WTO mà ông Tuyển đóng vai trò quyết định trong đàm phán.

Bẫy Việt Vị

Ngày 2-8-2011, trung tướng Nguyễn Đức Nhanh khẳng định trong một buổi họp báo: “Hà Nội không có chủ trương trấn áp người biểu tình”. Để rồi, ngày 18-11-2011, từ chỗ coi những người biểu tình chống Trung Quốc là yêu nước, Hà Nội ra thông báo vu cho người biểu tình là “gây rối Thủ đô”, là có “các thế lực chống đối trong và ngoài nước”.
Dân chúng nào biết, tác giả bản thông báo này là thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Phái viên của thủ tướng đặc trách an ninh, tôn giáo. Buổi tối trước khi bản thông báo được đưa xuống Hà Nội, Tướng Hưởng đã đưa đến nhà để Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp đọc duyệt. Cho dù không có quan chức nào ở Hà Nội chịu ký, bản thông báo và những “tác phẩm báo chí” bôi nhọ người biểu tình khác vẫn được phát trên các phương tiện truyền thông của Hà Nội. Từ đó, các vụ bắt bớ người biểu tình diễn ra khốc liệt liên tục vào các ngày chủ nhật.
Mấy tháng sau, trong khi chính quyền Thủ đô bị kiện và phải mang một gương mặt xấu trong mắt dân chúng, ngày 25-11-2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội “sớm có luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền đã được ghi trong Hiến pháp”.
Cũng thời gian đó, trong khi chính phủ đang đứng trước nguy cơ bị truy vấn bởi món nợ tới hạn không trả được của Vinashin và nguy cơ sụp đổ của các ngân hàng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã việt vị Quốc hội khi đăng đàn nói về biển đảo. Nguyễn Tấn Dũng đã khiến cho dân chúng tạm quên đi những vết thương kinh tế do ông gây ra khi trở thành chính trị gia đầu tiên của Hà Nội nói “Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa từ năm 1974”. Ngay cả Bộ chính trị cũng bị bất ngờ. Ông Dũng đã bí mật soạn bài diễn văn này, diễn đi diễn lại nhiều lần trước khi xuất hiện ngày 25-11-2011 trong phiên họp toàn thể được truyền hình trực tiếp.
Sau bài phát biểu ấy, nhằm chuẩn bị dư luận chống đỡ những đợt kiểm điểm trong nội bộ, thông tin bắt đầu được rỉ tai, “phe thân Tàu đang tìm cách chống ông Tấn Dũng”. Nhóm “13” hiện đã chuẩn bị theo đơn đặt hàng của ông Nguyễn Tấn Dũng một bài phát biểu về nhà nước pháp quyền.
Sau khi các đại gia gần gũi ông như Nguyễn Đức Kiên, Dương Chí Dũng, bị bắt; Trầm Bê ở trong tầm ngắm…, những ai nghĩ rằng ông Dũng đang hoảng sợ rất có thể sẽ mắc bẫy việt vị. Ông Nguyễn Tấn Dũng rất có thể lại xuất hiện như một nhà cải cách.