GÓP Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO HIẾN PHÁP

Phát biểu của ông Phan Đình Diệu tại Hội nghị ủy ban Trung ương Mặt trận Tồ quốc Việt nam ngày 12 tháng 3 năm 1992.

Kính thưa Đoàn chủ tịch,

Kính thưa tất cả các vị đại biều,

Tôi xin phép có một số ý kiến tham gia cuộc thảo luận kỳ này – tức là về dự thảo Hiến pháp.

Ý KIẾN THỨ NHẤT: Chúng ta đang sống trong một tình hình mà đất nước và thế giới có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức và lý giải một cách tỉnh táo. Về những khó khăn của đất nước, tôi xin không phải nói lại. Nhưng vấn đề cốt lõi là hiện nay đất nước đòi hỏi gì? Theo tôi nghĩ, cái lớn nhất mà đất nước đòi hỏi là phải phát huy được tất cả mọi năng lực của tất cả các thành viên cùa dân tộc trong tinh thần đoàn kết, hòa hợp, tự cường để đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và tiến kịp với thế giới. Phải trên cơ sở phát huy thật sự mọi năng lực của dân tộc thì mới có thể tận dụng được những thành tựu của thế giới hiện đại, tận dụng được những khả năng hợp tác với bên ngoài, và do đó, mới có th sử dụng được mọi thuận lợi để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, có cuộc sống no ấm hạnh phúc trong cộng đồng thế giới đang bước sang một giai đoạn văn minh mới. Tôi nói điều đó bởi vì hiện nay, trong điều kiện mở cửa, nhiều khi ta hy vọng quá nhiều vào những quan hệ với nước ngoài, đầu tư của nước ngoài, v.v… Điều đó là hết sức quan trọng, nhưng cái quan trọng hơn nữa, cái cốt lõi nhất là phài làm sao phát huy được mọi năng lực của chính bản thân chúng ta. Bởi vì dân tộc ta, nếu không phát huy được năng lực của chính mình, thì dù người nước ngoài có ồ ạt đầu tư vào, chúng ta cũng chỉ đóng vai trò của những kẻ đầy tớ hèn mọn mà thôi. Cho nên vấn đề làm chủ, vấn đề phát huy thật sự năng lực của mọi thành phần của dân tộc, không phân biệt đối xử, không có hận thù, hòa giải, hòa hợp, mới là cái cốt lõi, cái cơ bản nhất. Năng lực ấy chúng ta có. Còn thi hành bất kỳ một chính sách phân biệt nào, bất kỳ sự chia rẽ nào, bất kỳ sự duy trì tình trạng đối địch thù hận nào, cũng đều nguy hiềm cho quá trình đoàn kết để chấn hưng đất nước. Vì vậy, Hiến pháp, theo tôi nghĩ, cần phải được bàn trên tinh thần đó, tạo điều kiện cho xã hội Việt nam tiến theo hướng đó. Và cũng cần nói thêm rằng với tư cách một bộ luật cơ bản, cao nhất, thì hiến pháp phải thực sự là bộ luật cơ bản và cao nhất, không có bất kỳ một thứ luật nào khác, thành văn hay không thành văn, cao hơn nó.

Ý KIẾN THỨ HAI: Vậy những đòi hỏi đó của đất nước hiện nay cần được phản ánh trong thể chế xây dựng nhà nước, tức là được phản ảnh trong Hiến pháp, như thế nào? Như chúng ta đã biết, qua sự vận động của đất nước ta cũng như trên thế giới vừa qua, thì điều đã rõ là chúng ta phải từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ để xây dựng một đất nước, một thể chế có nền kinh tế thị trường thật sự (dĩ nhiên là có sự điều tiết của nhà nước) và một chế độ chính trị dân chủ đoàn kết dân tộc, có nghĩa là một xã hội dân sự và một nhà nước dân chủ pháp quyền. Vì thế, ở đây có nhiều vấn đề cần phải dứt khoát và phải có những quan điểm rõ ràng. Bởi vì, nếu theo hướng đó thì rõ ràng chế độ xã hội chủ nghĩa với tư cách là một thể chế xã hội, tức là một hình thái tổ chức xã hội trong đó chế độ sở hữu công cộng là cơ bản hay gần như là duy nhất, trong đó nền kinh tế được quản lý tập trung bằng kế hoạch thống nhất của nhà nước, trong đó có một chế độ chính trị do một đảng lãnh đạo theo mô hình chuyên chính vô sản, đã chứng tỏ là không thể duy trì được nữa và là sự cản trở cho mọi tiến bộ của dân tộc. Và cũng như đã được chứng tỏ, nó là sự cản trở và đã bị phá bỏ ở nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, chúng ta phải dũng cảm để nhận thấy rằng chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình đó, tức là theo chủ nghĩa Mác – Lênin, không còn đáp ứng được mục tiêu phát triển của dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Một vấn đề đặt ra là có thể chăng cố gắng kết hợp một nhu cầu không thể bác bỏ được là phát triển nền kinh tế thị trường với một ý đồ duy trì thể chế chính trị “xã hội chủ nghĩa” kiểu chuyên chính vô sản do một đảng lãnh đạo? Tôi nghĩ, ở đây mỗi thể chế, mỗi cách tổ chức xã hội có logic của nó và trong mỗi logic đó có những yêu cầu về tính nhất quán của nó. Không thể dễ dàng từ bỏ một số yếu tố này mà lại giữ nguyên một số yếu tố khác. Thực tế mấy năm qua cho thấy trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, nhưng vẫn giữ sự độc quyền lãnh đạo, thì không phải chúng ta phát huy được tính tích cực của cả hai thể chế đó, mà thật ra xã hội đồng thời chịu tác động tiêu cực của cả hai thể chể. Bởi vì, trong một nền kinh tế không có hàng hóa thì người ta không thể dùng quyền để bán đi được. Nhưng một nền kinh tế thị trường mà vẫn giữ độc quyền thì quyền cũng là một thứ hàng hóa. Và trong mấy năm qua, nạn tham nhũng không thể trị được chính là hình thức kết hợp sự độc quyền và nền kinh tế hàng hóa. Vì không có thứ hàng hóa nào lại dễ ăn dễ lãi như quyền lực. Tham nhũng về thực chất là việc biến một cách phi pháp quyền lực thành hàng hóa. Cho nên không thể kết hợp những yếu tố không thể dung hòa được của hai thể chế để hy vọng tạo ra một hình thái tích cực được. Chúng ta cần nhanh chóng khắc phục những yếu tố cộng lại cái tiêu cực như vậy. Thật ra, kinh tế thị trường không phải cái gì cũng tốt cả. Kinh tế thị trường cũng có nhiều mặt tiêu cực của nó. Chính vì vậy, để phát triển được nền kinh tế thị trường và để nó có thể phát huy được mặt tích cực và hạn chế được mặt tiêu cực, thì đòi hỏi phải tăng cường luật pháp, đòi hỏi phải có một hệ thống luật pháp thật đầy đủ và có khả năng điều chỉnh mọi mối quan hệ phức tạp trong một xã hội có kinh tế thị trường. Do đó, phải tăng cường luật pháp, tăng cường dân chủ, phải xóa bỏ độc quyền. Để làm được như vậy phải bảo đảm quyền tự do dân chủ, đặc biệt những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do phê phán của nhân dân. Trong điều kiện đó, tôi đề nghị phải dũng cảm nhìn vào sự thật và có sự lựa chọn khoa học và logic. Trong sự lựa chọn này, tôi hoàn toàn đồng ý với nhiều ý kiến đã được phát biểu là: khi khái niệm chủ nghĩa xã hội theo kiểu cũ không còn thích hợp nữa, còn theo một kiểu mới nào đó thì chúng ta chưa hề định hình được, thì không nên ghi những từ như vậy trong một văn bản pháp luật có tính chất bắt buộc đối với toàn dân trên đất nước này. Chúng tôi đề nghị những thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa Mác – Lênin”, v.v… trong Hiến pháp đều nên tạm gác lại. Có bỏ vĩnh viễn hay không, chuyện đó ta hãy xét sau, nhưng ít nhất là nên tạm gác lại. Tổ quốc này chưa phải là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, tài sản công cộng cũng không phải là “tài

 

sản xã hội chủ nghĩa”, những chữ ấy không mang một nội dung gì cả. Vì vậy chỉ cần nói chúng ta bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước Việt Nam, chúng ta bảo vệ tài sản công cộng trên đất nước này, thế là đủ. Ban nãy, Linh mục Vương Đình Bích có nói: vì có sự khác biệt tư tưởng giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và tôn giáo, do đó nếu ghi chủ nghĩa Mác – Lênin vào Hiến pháp thì rất khó xử đối với đồng bào tôn giáo. Tôi không theo một tôn giáo nào, tôi là một người làm khoa học, nhưng vì là một người làm khoa học, tôi hiểu rằng trong học thuyết của Mác và cả trong sự phát triển về sau của Lênin có những yếu tố tích cực cần giữ, đồng thời có rất nhiều yếu tố mà thời đại chúng ta đã vượt qua, khoa học đã bác bỏ. Với tư cách là một nhà khoa học, tôi cũng không thể đội lên đầu một chủ nghĩa, xem như nó là một thứ ánh sáng bất biến, một ánh sáng vạn năng chiếu rọi cho mọi tư duy của mình. Chúng ta cũng không nên bắt cả dân tộc ta phải đội lên đầu bất kỳ một chủ nghĩa nào, bất kỳ một cá nhân nào. Dân tộc phải trên hết.

Trên tinh thần đó, tôi nghĩ rằng nếu đặt vấn đề đổi tên nước, thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh Lê Đình Hoan phát biểu ban sáng là nên lấy một cái tên cực kỳ đơn giản, nhưng phản ánh mọi tình cảm tha thiết nhất của mọi người dân đất nước này, dù ở bất kỳ góc trời nào, đó là tên NƯỚC VIỆT NAM. Việt nam thôi, không cần có mĩ từ nào bên cạnh cả.

Ý KIẾN THỨ BA: Dẫu biết rằng nhiều người không muốn nói đến một vấn đề khá tế nhị và không phải dễ phát biểu, tôi cũng xin mạnh dạn đề cập. Đó là vấn đề đảng lãnh đạo. Chúng tôi nghĩ đã đến lúc cần lựa chọn: Một Hiến pháp theo mô hình chuyên chính vô sản, do Đảng cộng sản lãnh đạo, hay một Hiến pháp dân chủ pháp quyền? Nửa vời thì sẽ tự mâu thuẫn. Tôi không có thì giờ phân tích kĩ ở đây, nhưng rõ ràng có rất nhiều mâu thuẫn trong bản dự thảo Hiến pháp hiện nay. Không chỉ là mâu thuẫn, mà còn có nhiều chỗ phản ảnh không thật và nhiều điều bị che giấu đằng sau những ngôn từ của văn bản. Vì, nếu đã giữ điều 4, tức là giữ điều nói đảng là lực lượng lãnh đạo của Nhà nước và xã hội, thì cần có một chương qui định rõ ràng về đảng lãnh đạo. Để trung thực với dân tộc thì cần nói rõ đảng lãnh đạo là như thế nào? Trong điều kiện đó, quốc hội có còn là cơ quan quyền lực cao nhất nữa không? Hay đảng là cơ quan quyền lực cao nhất, còn quốc hội chỉ là cơ quan thể chế hóa các nghị quyết của đảng? Những điều như vậy cần được ghi rõ thành những điều trong Hiến pháp, có vậy mới sòng phẳng và trung thực với nhân dân. Nếu không làm như vậy, thì Hiến pháp sẽ là hình thức và sự chuyên quyền tùy tiện sẽ thực tế ngự trị như ta đã biết từ trước đến nay. Còn nếu quả thực đã thừa nhận Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất thì để không mâu thuẫn, phải không có điều 4. Trong trường hợp đó đảng phải giành quyền lãnh đạo bằng sự tín nhiệm, bằng cách ra ứng cử Quốc hội trong cuộc bầu cử thực sự tự do và bình đẳng, và giành đa số trong Quốc hội. Đảng lãnh đạo, như vậy, là phải đứng trong dân tộc, nằm trong dân tộc, cùng với dân tộc để tranh quyền lãnh đạo, chứ không phải tự đặt mình đứng trên dân tộc, đứng ngoài dân tộc, đứng trên Nhà nước để tự áp đặt quyền lãnh đạo của mình. Thế là công minh và minh bạch. Như thế, tôi chắc rằng uy tín của đảng sẽ cao hơn. Biết bao thời kỳ trước đây, làm gì có điều qui định trong Hiến pháp là đảng lãnh đạo, mà đảng vẫn được nhân dân thừa nhận, và rõ ràng uy tín của đảng hồi đó cao hơn cả thời kỳ mà sự lãnh đạo được ghi vào Hiến pháp. Tôi không chống lại sự lãnh đạo của đảng. Tôi mong muốn có một đảng với tư cách là một lực lượng chính trị có tổ chức và có kinh nghiệm, có trí tuệ và có năng lực tập họp, giành được sự tín nhiệm của nhân dân và lãnh đạo đất nước trong một thể chế dân chủ. Nhưng tôi cũng không mong có một đảng tự áp đặt quyền lãnh đạo tối cao, bất chấp mọi luật pháp, đứng trên Nhà nước. Điều đó chỉ làm giảm uy tín của đảng và đưa thiệt thòi đến cho dân tộc mà thôi.

Ý KIẾN THỨ TƯ: Vấn đề quyền con người và quyền công dân. Trong bản dự thảo có một chương dài, nhưng sắp xếp chưa thỏa đáng lắm. Mỗi chúng ta ở trong xã hội đều có quyền con người và quyền công dân, bởi vì mỗi cá nhân sống trong xã hội với hai tư cách: tư cách là một cá nhân cần được bảo vệ, cần được tôn trọng để tồn tại như một con người cá thể và tư cách thứ hai là như một thành viên của cộng đồng dân tộc. Quyền con người là quyền để tồn tại như một cá thể, quyền công dân là quyền để tồn tại và để góp phần như một thành viên của cộng đồng dân tộc. Những quyền như bất khả xâm phạm, tự do cư trú, tự do tư tưởng, tự do đi lại, v.v… là những quyền con người. Còn quyền công dân cơ bản là quyền tham gia công việc của cộng đồng: tham gia lựa chọn những người xứng đáng vào bộ máy cai quản cộng đồng, tức là quyền bầu cử, ứng cử, quyền hội họp, quyền lập hội. Nhưng nên nhớ rằng nhân dân không chỉ thực hiện quyền dân chủ thông qua các cơ quan dân cử, nghĩa là cứ 4-5 năm đi bầu một lần là xong. Nhân dân còn có quyền tham gia quản lý nhà nước trong quá trình hoạt động hàng ngày và thường xuyên của nhà nước và của xã hội. Nhưng tham gia bằng cách nào? Dĩ nhiên không phải lúc nào cũng tập hợp dân lại để lấy phiếu về từng vấn đề. Cũng không phải lúc nào cũng có thể tập họp dân lại để bàn chuyện này, chuyện khác. Vì vậy, quyền cơ bản của dân trong việc thường xuyên phê phán và góp phần vào việc quản lý Nhà nước là thông qua dư luận, tức là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quyền này cực kỳ quan trọng. Quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí không chỉ nằm trong phạm vi quyền con người, mà đây là quyền của nhân dân góp phần vào công việc của cộng đồng. Cho nên chúng tôi đề nghị phải thật sự tôn trọng những quyền này và tạo điều kiện cho những quyền này có vị trí thích đáng. Một xã hội sẽ hoàn toàn tê liệt nếu như không có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tức là những quyền mà danh từ khoa học gọi là tạo ra những “feedback”, những liên hệ ngược. Trong hệ điều khiển của xã hội, không có nó thì xã hội bị tê liệt và sự thao túng của quyền lực là điều không thể tránh khỏi. Những chuyện tham nhũng, những chuyện đặc quyền, đặc lợi, trong đó có những chuyện tày đình như đã xảy ra trong thời gian vừa qua, sẽ không thể nào khắc phục được, là bởi vì nếu chỉ giao cho những cơ quan quyền lực thì làm sao chống được những tệ nạn mà nguồn gốc chính là từ quyền lực? Những chuyện như hóa giá nhà ở thành phố Hồ Chí Minh chẳng hạn,tại sao không công bố trên báo chí danh sách những người được hưởng nhà hóa giá? Nếu công bố như thế thì sẽ rõ ra ai là người tham nhũng và cần phải chống tham nhũng như thế nào. Cho nên, mối liên hệ ngược, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do phát biểu của nhân dân trong đời sống hàng ngày, quyền tạo ra dư luận là quyền cơ bản, rất cơ bản, nằm trong các quyền công dân của chúng ta. Tôi đề nghị trong Hiến pháp các quyền công dân đó được ghi thành một nhóm, còn các quyền con người thì ghi thành một nhóm khác.

Ý KIẾN THỨ NĂM: Về Quốc hội. Muốn quốc hội trở thành cơ quan quyền lực cao nhất, phải có hai điều kiện: 1) đại biểu quốc hội phải có năng lực thật sự để hiểu được quyền lực cao nhất đó và có khả năng thực hành quyền lực đó. 2) đại biểu phải có thì giờ để làm công việc đại biểu của mình. Còn nếu quốc hội chỉ gồm cho đủ thành phần, kể cả những người không hiểu gì về công việc Nhà nước, xuân thu nhị kỳ ngồi với nhau để gọi là có ý kiến về những vấn đề trọng đại của đất nước thì làm sao có “ý kiến” được. Tôi đồng ý đại biểu quốc hội phải có những tiêu chuẩn về kiến thức, năng lực, nhưng cũng phải có tiêu chuẩn này nữa: đại biểu quốc hội phải bảo đảm dành hoàn toàn thì giờ lo việc của quốc hội trong nhiệm kỳ cùa mình. Nếu tự xét thấy không đủ điều kiện đó, thì không nên ứng cử đại biểu. Một Quốc hội làm việc thường xuyên thật sự đại diện cho trí tuệ của dân tộc là hết sức cần thiết để bảo đảm cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hiện nay, khi chuyển sang kinh tế thị trường, cần có hệ thống luật pháp thật đầy đủ và hoàn chỉnh, nếu cứ như hiện nay, mỗi năm Quốc hội họp hai lần, mỗi lần chỉ thông qua vài ba luật một cách không đầy đủ trí tuệ lắm, tất nhiên sẽ không bao giờ có đủ luật cho một nền kinh tế phát triển lành mạnh. Mà không có luật đầy đủ và hoàn chỉnh thì chỉ có thể có một nền kinh tế què quặt, chứa đựng rất nhiều tiêu cực hoành hành mà thôi.

Do đó, tôi đề nghị cần thực sự đổi mới việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đặc biệt là việc tôn trọng quyền tự do và bình đẳng trong ứng cử. Quyền ứng cử là quyền bình đẳng của mọi công dân. Chỉ cần thỏa mãn một số điều kiện qui định là đều có quyền ứng cử. Điều kiện đó có thể là người ứng cử phải hội đủ một số chữ ký đề cử của cử tri (có thể là 5 nghìn chữ ký chẳng hạn). Những chữ ký đó có thể là của cử tri trong một đoàn thể hay trên địa bàn dân cư. Việc hiệp thương có thể được tiến hành giữa các đoàn thể để giới thiệu các ứng cử viên chung. Sau đó, cần nộp đơn ứng cử cho ban bầu cử, chứ không phải nộp đơn cho ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận là một tổ chức của các đoàn thể, không phải là một cơ quan nhà nước để tổ chức bầu cử. Việc lập danh sách bầu cử là của cơ quan Nhà nước về bầu cử ở trung ương và địa phương.

Ý KIẾN THỨ SÁU: Về tổ chức Nhà nước. Đó là vấn đề phức tạp. Chúng ta dường như thích phê phán cái gọi là “tam quyền phân lập” (tức quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) như là một cái gì đó của chế độ tư bản. Thật ra đó là một hình thức tổ chức nhà nước tiến bộ của loài ngườỉ. Dĩ nhiên, chúng ta có thể theo hoặc không theo, có thể chế biến theo cách này hay cách khác. Theo tôi, trong điều kiện thực tế của chúng ta hiện nay, cần tôn trọng tính chất độc lập của các quyền đó, nhưng có thể không theo một hình thức tổ chức hoàn toàn phân lập. Về quyền hành pháp nên có qui định trách nhiệm cá nhân thật rõ ràng và đầy đủ của thủ tướng. Còn về Quốc hội, tôi đồng ý với những ý kiến như của giáo sư Lý Chánh Trung vừa rồi. Nếu Quốc hội làm việc thường xuyên thì không cần có ủy ban thường vụ Quốc hội, mà chỉ cần có chủ tịch và các phó chủ tịch. Các kỳ họp không nên cách nhau sáu tháng mà phải ngắn hơn. Do đó, cũng không cần ủy ban thường vụ Quốc hội. Chức chủ tịch nước như bản dự thảo trình bày là hoàn toàn cần thiết. Hệ thống hành pháp thì rõ ràng cần phải có sự chỉ đạo tập trung và thống nhất. Do đó, phải bổ nhiệm những viên chức chịu trách nhiệm hành pháp tại các địa phương. Có thể tham gia ý kiến người này, người khác, nhưng phải bổ nhiệm. Và người được bổ nhiệm phải chịu trách nhiệm trước cấp bổ nhiệm mình.

Ý KIẾN THỨ BẢY: Về vai trò của Mặt trận và các đoàn thể. Tôi đề nghị cần xem xét nghiêm túc là có nên tiếp tục nhà nước hóa các đoàn thể như hiện nay không ? Bởi vì hiện nay, chúng ta cái gì cũng dựa vào nhà nước cả. Thật đau lòng là mỗi khi Mặt trận làm gì, cũng nghe kêu Nhà nước đối xử với Mặt trận như thế này, như thế kia, nhà nước cần có chế độ thế này, thế kia, v.v… Nếu chúng ta là tổ chức quần chúng, tức là một tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của quần chúng, thì cái rễ của chúng ta là quần chúng, chứ không phải nhà nước. Và như vậy, sức mạnh của chúng ta là sức mạnh phản ảnh nguyện vọng, tâm tư, đề nghị của quần chúng, chứ không phải là cái đuôi nhạt nhẽo của bộ máy nhà nước. Tôi đề nghị: trong việc chuyển biến nhà nước thành một nhà nước dân chủ pháp quyền, các tầng lớp nhân dân, các thành phần nhân dân có quyền thành lập các đoàn thể, các hội đoàn của mình một cách hoàn toàn tự nguyện, và điều đó cần được bảo đảm trong hiến pháp về quyền lập hội, thế là đủ. Cũng không cần nêu trong Hiến pháp là có những đoàn thể nào. Đặc biệt, không nên xem các đoàn thể của nhân dân là nằm trong cơ cấu của hệ thống nhà nước, là những thành phần của một hệ thống chính trị chịu sự điều khiển của Đảng và Nhà nước. Dĩ nhiên, như vậy thì các đoàn thể chúng ta cũng phải dũng cảm không ăn lương của Nhà nước. Tôi đề nghị ngân sách Nhà nước chỉ chi cho bộ máy Nhà nước, không chi cho bất kỳ đoàn thể nào. Vì vậy, các cơ quan đảng, các cơ quan đoàn thể không ăn lương từ ngân sách nhà nước.

Cuối cùng, tôi không hy vọng những điều trình bày nói trên sẽ được xem xét phân tích trong một thời gian ngắn, cũng như ý kiến của nhiều vị đã trình bày trong hội nghị này chắc chắn sẽ còn được nghiên cứu kĩ. Như nhiều vị đã phản ảnh, việc thảo luận dự thảo Hiến pháp lần này quá vội vàng, nhân dân chưa có điều kiện góp ý đầy đủ. Do đó, nên chăng lần này chỉ nên đưa ra một số điều sửa đổi Hiến pháp 1980 để tạo thuận lợi cho những công việc trước mắt, ví dụ như những điều khoản về chế độ kinh tế, những điều khoản về vấn đề bầu cử quốc hội, v.v… Còn việc sửa đổi toàn diện để xây dựng một Hiến pháp mới thì giao cho Quốc hội mới tiến hành trong cả nhiệm kỳ sắp tới./.

Nguồn: Dropbox

Nhận xét về các Dự thảo và Hiến pháp tham khảo

Dương Phi Anh

POSTED BY  ⋅ FEBRUARY 18, 2013
FILED UNDER  

Trước hết, đến giờ này, tôi mong trang “Cùng Viết Hiến Pháp” nên khuyến khích các bài viết phản biện thẳng thắn với các Bản dự thảo mà mình đã công bố để có những tranh luận, góp ý một cách sát thực và sôi nổi nhất. Tôi nghĩ rằng với các học giả uyên thâm nghiên cứu lập pháp, lập hiến (đã thấy xuất hiện trên trang “Cùng viết hiến pháp” này khá nhiều rồi) mà không có những đóng góp một cách thẳng thắn, hiệu quả nhất để cho nhà nước xây dựng được bản hiến pháp tốt cho nhân dân thì quả là điều đáng tiếc! Tôi cũng trộm nghĩ rằng những nghiên cứu sâu sắc của các nhà nghiên cứu từ trước tới nay về Hiến pháp của VN và các nước khác, thực sự cần thiết và là nguồn tham khảo bổ ích cho rất nhiều người quan tâm. Nhưng, nếu để nó rời rạc và không được vận dụng, ứng dụng ngay vào các Bản Dự Thảo để được thảo luận, bổ sung, thông qua thì cũng chẳng khác nào ném từng nắm sỏi một để lấp hồ, rất lãng phí thời gian, trí tuệ. Tôi cũng mạo muội đề nghị các nhà lãnh đạo, Ban soạn thảo Dự thảo nên xem lại những việc làm “đụng chạm” tới Hiến pháp một cách nghiêm túc, để Hiến pháp ban hành ra thực sự được tôn trọng, thực sự của dân, do dân, vì dân và mong rằng từ nay không phải hao tốn thời gian, tài lực, vật lực với nó nữa.

Tôi xin lần lượt góp vài ý nhỏ và thích thú, lắng nghe phản biện về các bản dự thảo và hiến pháp tham khảo. Qua đó để trao đổi và cùng suy ngẫm về sự cần thiết giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hay là thay thế Hiến pháp 1992 hiện hành.

 

1. Vài băn khoăn trước:

Có lẽ, yêu cầu quan trọng và lý tưởng nhất đối với Hiến pháp là phải thiết kế, xây dựng một bản Hiến pháp tốt, có thể sử dụng được đến hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm sau…

Hiến pháp phải là nền tảng pháp lý ổn định, không phải thích sửa là sửa, thích thay là thay, mà cần phải có sự tôn trọng bằng quy định chặt chẽ trong việc sửa đổi, phúc quyết Hiến pháp. Vì vậy, đầu tiên, tôi thống nhất với nhiều ý kiến là cần phải thận trọng tối đa, cần lùi thời gian tham khảo kiến thức trong nhân dân lại tối thiểu là một vài năm, để Ban soạn thảo tập hợp được tất cả ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân một cách khách quan. Hiến pháp không phải là một đạo luật thông thường mà có thể “sản xuất” một cách nhanh chóng. Nhiều nước trên thế giới, để sửa đổi, bổ sung một điều trong Hiến pháp thôi, phải mất cả chục năm, thậm chí cả trăm năm tranh luận, thông qua. Nếu cứ quan điểm “Hiến pháp do con người chúng ta ban hành, nên sửa đổi, bổ sung, thay thế khi nào mà chẳng được” thì chắc chắn Hiến pháp sẽ thay đổi thường xuyên, theo quan điểm từng thời kỳ của các nhà lãnh đạo. Truyền thống tôn trọng hiến pháp sẽ bị thách thức. Chẳng hạn, khi ông Thủ tướng mạnh thì ông tìm cách thu quyền lực về phía mình; nếu Hiến pháp không quy định những “quyền mới” thì ông vận động sửa đổi, bổ sung; rồi đến ông Chủ tịch nước mạnh cũng vậy, cũng muốn sửa đổi Hiến pháp…

Hiến pháp 1992 hiện hành và bản Dự thảo sửa đổi cũng đã có quy định “sẵn” rồi: “Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp”, và cũng dễ dàng trao quyền cho những người đó đề xuất việc sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội luôn “sẵn” quyền lập hiến, các Đại biểu Quốc hội của chúng ta thì có lẽ “dễ dàng” thông qua theo phương thức  “đa số thống nhất, đồng ý” mà thôi, nên việc sửa đổi Hiến pháp “cho phù hợp tình hình” gần như… không có gì là khó cả (?!). Thực tế cho thấy, Hiến pháp 1992, một thời là niềm tự hào, ấy thế mà mới đem vào áp dụng, đến nay, bình quân chục năm lại có yêu cầu sửa đổi một lần rồi…

Có lẽ do chính bản Hiến pháp đó không dựa trên những nguyên tắc lập hiến đã được đúc kết tốt nhất?!…

Nên, điều đầu tiên, cần phải chặt chẽ quy trình “làm” hiến pháp; cả ở Ban soạn thảo và cả những Đại biểu Quốc hội sẽ biểu quyết về bản Hiến pháp đó. Giá như ngay từ bây giờ, có một cơ chế cho nhân dân kiểm tra (test) trước về trình độ lập hiến của những người đang xây dựng dự thảo và những người sẽ biểu quyết thông qua bản Hiến pháp trong tương lai thì hay biết mấy?!

Bên cạnh đó, đúng ra Ban soạn thảo phải có những giải trình về việc tại sao lại có sửa đổi, bổ sung một điều, một chương của Hiến pháp để người dân dễ theo dõi và góp ý mới đúng.

Thứ nữa là các ý kiến tiến bộ, tích cực (thậm chí là “trái chiều”), cần phải được tôn trọng; tiếp thu với quy trình khách quan, đầy đủ để tránh trường hợp “Hiến pháp bỏ túi” (giống án “bỏ túi”) như một số người lo lắng…

2. Về Hiến pháp 1992 và Dự thảo sửa đổi lần 2:

2.1       Lời nói đầu:

Theo tôi, cả trong bản Hiến pháp 1992 và Dự thảo thì “Lời nói đầu” như thế là không ổn. Lời nói đầu của một bản Hiến pháp phải bao quát được những nguyên tắc, những nội dung cơ bản về trách nhiệm (quyền và nghĩa vụ cơ bản)  của nhà nước với nhân dân nói chung. Nó giới thiệu về một sự thống nhất ký “khế ước” trao quyền của nhân dân cho nhà nước và những cam kết của nhà nước với nhân dân. Hiến pháp có nhắc đến truyền thống, văn hóa nhưng không phải là “lịch sử nhà nước hiện tại”, nên không cần cụ thể mốc lịch sử xây dựng nhà nước hay những người làm nên lịch sử đó. Nếu muốn nhắc thì phải nhắc đến rất nhiều nhân vật từ xưa tới nay, và như thế rất khó.

 

2.2      “Hư quyền” trong Hiến pháp:

Rất nhiều vấn đề trong Hiến pháp hiện hành được quy định rất tốt nhưng trở thành những câu khẩu hiệu, ghi nhận hơn là một Quy phạm Hiến pháp, để buộc các chủ thể liên quan phải tôn trọng, chấp hành. Nhiều quy định trở nên mơ hồ vì không rõ là quyền hay nghĩa vụ của nhà nước trước chủ thể đó. Chẳng hạn, chúng ta thường thấy câu “Nhà nước bảo đảm các quyền tự do X, Y, Z…”. Nếu hiểu đó là “nghĩa vụ” của nhà nước thì câu đó là “Nhà nước phải bảo đảm…”; còn nếu là “quyền” của nhà nước thì rõ ràng nhà nước “có quyền” đảm bảo thực hiện (hoặc không) các quyền tự do X, Y, Z đó?!

Thực tế cho thấy khá nhiều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp 1992 đã không được cụ thể hóa thành luật để thi hành, nên hiệu quả pháp lý của quy định đó trong hiến pháp đã không cao, thậm chí không có. Chẳng hạn quyền biểu tình ôn hòa; quyền lập hội…, đến nay đã hơn 20 năm Hiến pháp quy định rất rõ ràng nhưng chưa có luật! Và như thế thì các ghi nhận đó trở thành “hư quyền” (tạm gọi).

Ngoài ra, có khá nhiều câu là khẩu hiệu thực sự mà dễ dàng tìm ra trong Hiến pháp và dự thảo. Chẳng hạn, Điều 65, dự thảo lần 2, quy định: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”…

Vì vậy, trong bản “Tập viết Hiến pháp” đã có trong trang “Cùng viết hiến pháp”, tôi có một đề xuất “mới” là: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm tất cả các quan hệ xã hội cơ bản và các quy định trong bản hiến pháp này phải được cụ thể hóa và thực thi bằng pháp luật. Mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật”.

 

2.3      Về Điều 4 Hiến pháp:

Đã có nhiều phân tích về việc có nên bỏ Điều 4 quy định về sự lãnh đạo của Đảng… Tôi thì quan điểm là không nên quy định! Tuy nhiên, theo tôi, nếu quy định mà như hiện nay cũng là không chặt chẽ, thậm chí là mơ hồ. Cụ thể, quy định “Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Nếu hiểu nguyên nghĩa “xã hội” trong một đất nước có chủ quyền thì XÃ HỘI đó bao gồm các thành phần cơ bản sau: Nhà nước; các tổ chức (chính trị, xã hội, đoàn thể, tôn giáo, hội nghề nghiệp…) và cá nhân (công dân hoặc không phải công dân). Không một thể nhân nào có đủ điều kiện, tài năng để lãnh đạo toàn bộ hoạt động trong xã hội cả. Có lẽ mục đích của người viết câu này là: Đảng lãnh đạo nhà nước; nhà nước quản lý các hoạt động trong xã hội? Hoặc là: Đảng lãnh đạo nhà nước và các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội? Như vậy, mệnh đề nêu trên là quá rộng, chồng chéo và mơ hồ?!

Nhưng, để rõ ràng hơn, xin hãy tham khảo lại nguyên nghĩa về chức năng của một đảng phái chính trị trước. Theo đó, chức năng cơ bản nhất của đảng phái là để “cầm quyền”, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Đảng ta là đảng cầm quyền” (chứ không phải lãnh đạo). Quyền đó do nhân dân trao (ủy quyền). Thường các đảng phái trên thế giới đều giành nhau để được quyền quản lý, điều hành hoạt động xã hội. Tức là giành nhau quyền hành pháp, thành lập chính phủ mà thôi. Vì vậy, các cuộc bầu cử chủ yếu ở các nước phát triển là để thắng cử, cụ thể là để đứng đầu cơ quan hành pháp (thủ tướng hoặc tổng thống). Sau khi đắc cử, người đứng đầu cơ quan hành pháp sẽ chủ động đề xuất nhân sự cấp dưới cho quốc hội phê chuẩn, để thành lập chính phủ. Đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền thể hiện rất rõ trong việc điều hành của chính phủ; có thể hiện nhưng không nhiều ở vai trò lập pháp và không thể hiện ở cơ quan tư pháp.

Hầu hết các bản Hiến pháp tiến bộ không ghi cụ thể về sự cầm quyền hay lãnh đạo của đảng phái chính trị trong Hiến pháp.

2.4      Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân:

Nhiều phát biểu của chuyên gia, của người trong Ban soạn thảo dự thảo HP, cho rằng trong lần sửa đổi này thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được chú trọng hơn, vì được đưa từ chương 5 lên chương 2 và có nhiều điều mới, nhiều sửa đổi, bổ sung mới…

Thực ra, trong một bản Hiến pháp thì chương đầu cũng như chương cuối đều quan trọng bậc nhất cả. Vấn đề là quy định đầy đủ và có cơ chế để thực thi hiệu quả điều hiến định ấy mới là quan trọng hơn mà thôi. Những thay đổi như đảo vị trí chương mục hoặc sửa đổi bổ sung một số điều vừa mang tính cập nhật theo thời gian (chẳng hạn Quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền được bảo vệ môi trường (“mới” – điều 46 dự thảo)… chỉ mang tính kỷ thuật mà thôi.

Bản dự thảo hiện nay cho thấy chủ yếu là sắp xếp lại điều luật, bố cục lại; bổ sung một số quyền và một số câu chữ chưa rõ mà thôi. Những quyền đó khi đưa vào thảo luận hoặc xin ý kiến nhân dân sẽ có bổ sung rất nhiều, đến nỗi… tha hồ lựa chọn.

Một điều nữa là các chế định trong Hiến pháp 1992 và dự thảo sửa đổi, người ta thấy rất rõ về sự liệt kê quá nhiều chi tiết, thay vì chỉ cần tóm gọn. Kinh nghiệm chỉ ra rằng, trong xây dựng luật, đặc biệt là Hiến pháp, càng liệt kê nhiều thì càng… không đầy đủ!

Tóm lại, những thay đổi mang tính liệt kê thêm, những bố cục lại điều luật hay chỉnh sửa câu cú đều không phải là những thay đổi, sửa đổi cơ bản của một bản Hiến pháp.

2.5      Không có thay đổi lớn, có hiện tượng thụt lùi về trách nhiệm Chính phủ?

Khi nghiên cứu về thay đổi HP, người ta thường để ý đến sự thiết kế về nguyên lý vận hành của Hệ thống chính trị, mà quan trọng nhất là của bộ máy nhà nước, gồm các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhận xét đầu tiên là không có sự thay đổi lớn nào!

Ở ta, ngân sách nhà nước vẫn vậy, do người dân đóng góp, không những để chi cho sự vận hành của cơ quan nhà nước (như các nước) mà còn chi cho cả các tổ chức chính trị, xã gội khác như: đảng, đoàn thể (công đoàn, đoàn thanh niên, hội nghề nghiệp…). Còn bộ máy nhà nước vận hành theo sự “tập quyền” nhưng có sự “kiểm soát quyền lực” (với lý thuyết “kiểm soát chiều ngang, kiểm soát chiều dọc”) thì không rõ ràng, thậm chí tạo nên sự rắc rối mà cũng không chắc chặt chẽ khi “kiểm soát ngang, kiểm soát dọc”. Điều này cũng sẽ không phát huy rõ nét chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước như một sự độc lập, “trưởng thành”, tin tưởng và tự chịu trách nhiệm.

2.5.1    Về Quốc hội, vẫn không thấy có sự thay đổi lớn nào. Thậm chí, những điều kiện biểu quyết tại Quốc hội không được chú trọng quy định, là điểm sơ hở, không tiến bộ bằng HP 1946. Ví dụ: Hiến pháp 1946 quy định phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp và phải quyết nghị theo quá nửa số đại biểu tới họp thì các nội dung mới được thông qua… Nói tóm lại, rất nhiều điều kiện về hoạt động Quốc hội thì Hiến pháp 1946 quy định rành mạch hơn.

Ngoài ra, có những điều luật không quy định tình huống ngược lại để cho chặt chẽ hơn. Chẳng hạn: Điều 87 khoản 2 dự thảo: “Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu”. Đặt ngược lại, trong trường hợp Đại biểu Quốc hội không được tạo điều kiện thì phải làm sao?…

2.5.2    Về chế định Chủ tịch nước: Gần như giữ nguyên như trong Hiến pháp 1992. Chủ tịch nước vẫn chỉ mang tính biểu tượng, hình thức. Hiến pháp dự thảo không nói rõ về việc Chủ tịch nước là Nguyên thủ quốc gia nên thực tế có rất nhiều người nhầm lẫn rằng VN có đến 4 nguyên thủ quốc gia, gồm: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội (báo chí viết như vậy rất nhiều).

Điều nữa cũng cần phải xem xét thảo luận lại là cả Hiến pháp 1992 và Dự thảo đều quy định cả Chủ tịch nước và Thủ tướng có quyền đề nghị Quốc hội xem xét tư cách của các Bộ trưởng. Có ý kiến cho rằng người nào đứng đầu chính phủ, trực tiếp lãnh đạo Bộ trưởng thì có quyền lựa chọn, đề xuất về tín nhiệm các bộ trưởng đó. Điều này để thể hiện sự chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn nhân sự chính phủ, tức tăng thẩm quyền cá nhân của người đứng đầu chính phủ chứ không nên để hai người cùng có quyền xem xét tư cách bộ trưởng một lúc…

2.5.3    Về chế định Thủ tướng: Là người đứng đầu chính phủ, điều hành để bảo đảm các hoạt động cơ bản trong xã hội theo quy định của pháp luật, Thủ tướng thường phải chịu trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu chính phủ. Vậy mà nay, dự thảo quy định “Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.” thì quả là một bước thụt lùi, chẳng khác nào Hội đồng Bộ trưởng của thời bao cấp (Ở cấp tỉnh, UBND cũng được quy định tương tự nhưng có thêm phần trách nhiệm cá nhân với từng vấn đề cụ thể khác). Trong khi đó, yêu cầu đặt ra cho một chính phủ là phải năng động, tăng cường trách nhiệm cá nhân để quản lý, điều hành theo kịp tình hình thực tế. Chính phủ được xem như một ê-kíp, được thành lập để thi hành pháp luật, điều hành nền hành chính quốc gia, bảo đảm hoạt động của các quan hệ khác trong xã hội… Vì vậy, khi cần, lãnh đạo chính phủ có thể đổi, thay thế và quy định về sự thay đổi này phải cụ thể, chặt chẽ. Thay đổi nhưng không ảnh hưởng tới toàn hệ thống chính trị, quản lý hành chính. Xem các nước như Nhật Bản chẳng hạn, chính phủ có thể thay đổi liên tục nhưng việc quản lý hành chính, xã hội vẫn hết sức ổn định.

2.5.4    Về chương 10 Dự thảo: Là một chương mới nhằm thể hiện sự độc lập của cơ quan kiểm toán Nhà nước và Hội đồng bầu cử quốc gia với Chính phủ. Riêng về Hội đồng Hiến pháp chỉ làm nhiệm vụ phát hiện tính hợp hiến “kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp; kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn”. Cũng tương tự như các điều luật khác đã phân tích về sự ngược lại, việc kiến nghị, yêu cầu… của Hội đồng Hiến pháp mà không được những cơ quan liên quan ở trên tiếp thu, xử lý thì sẽ thế nào?…

Tóm lại: Theo tôi, việc sửa đổi như bản dự thảo được trình lần 2 vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn. Trong bản dự thảo, đại đa số các điều luật đều ghi “sửa đổi, bổ sung” các điều nào đó của Hiến pháp 1992 hoặc có một số điều “mới”; và có sự thay đổi chương, mục, nhưng hầu như đó chỉ là những sửa đổi mang tính kỹ thuật, bổ sung một số điểm cho đầy đủ hơn theo quan điểm của Ban soạn thảo; không có những thay đổi nào mang tính cơ bản. Điều đặc biệt đáng lưu ý là có sự “thụt lùi” về trách nhiệm của Chính phủ và UBND cấp tỉnh vì “làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số” (tức là cũng chịu trách nhiệm tập thể một cách không rõ ràng mà thôi)!. Còn các cơ quan mới như Hội đồng Hiến pháp hoặc Kiểm toán nhà nước về trực thuộc Quốc hội thì chưa quy định chặt chẽ về thẩm quyền và chưa rõ ràng về địa vị pháp lý. Mỗi khi, các thiết chế quyền lực “có sự thống nhất” (hoặc thông đồng) với nhau thì các cơ quan chức năng dù trực thuộc bên nào cũng đều không phát huy hết được hiệu quả vốn có, độc lập của mình.

3. Về Hiến pháp 1946 và bản “Hiến pháp mẫu” của 72 nhà trí thức:

Như đã “giải trình”, trong chưa đầy 5 ngày, một người “tay ngang” như tôi đã có thể tập viết, biên tập (chứ không phải soạn thảo) một bản Dự thảo Hiến pháp mà được duyệt đăng như một “Dự thảo tham khảo” trên trang “Cùng viết Hiến pháp” này. Đã có những ý kiến nghi ngờ, phản ứng. Nhưng, thực tế là chỉ cần nhìn thấy được những điểm mạnh, yếu của các bản tham khảo và chắt lọc để chọn điểm mạnh, gạt bỏ điểm yếu (theo quan điểm riêng) thì có thể biên tập một cách nhanh chóng thôi. Tôi đã lấy rất nhiều kiến thức, ý tưởng, những điều tôi cho là “mạnh”, của bản Hiến pháp 1946 và đặc biệt là “Hiến pháp mẫu” của các nhà trí thức vào bản “tập viết” của tôi.

Cụ thể, tôi copy Hiến pháp 1946 ra “làm nền”, sửa chữa, bổ sung, biên tập trên đó. Vì tôi nghĩ Hiến pháp này về cơ bản tốt, khắc phục được những điểm yếu của bản hiến pháp 1992, áp dụng sẽ phù hợp với VN và đặc biệt là sẽ không có xáo trộn nhiều khi áp dụng. Tôi lấy toàn bộ bố cục của bản Hiến pháp này, gần như giữ nguyên, chỉ bổ sung (không nhiều) về chức năng, thẩm quyền và cách vận hành của các chủ thể quyền lực nhà nước mà Hiến pháp 1946 đã thiết kế.

Lời nói đầu thì tôi thêm vài câu, copy những câu hay của “Hiến pháp mẫu” của 72 nhà trí thức và những nội dung còn lại là của Lời nói đầu của Hiến pháp 1946.

Quốc hội: Theo tôi, quy định về hoạt động của Quốc hội theo Hiến pháp 1946 là khá chặt chẽ, khoa học khi đặt ra các điều kiện hoạt động của quốc hội, điều kiện biểu quyết…

Về phía mình, thay vì dùng từ “Nghị viện”; “nghị viên”; “Ban thường vụ”  thì tôi dùng từ “Quốc hội”, “Đại biểu quốc hội”, “Ủy ban thường vụ quốc hội” tương ứng. Vì tôi nghĩ rằng những từ này đã quen thuộc với người dân VN hiện nay, dùng sẽ không xáo trộn trong suy nghĩ mọi người (Thực ra, về “Đại biểu quốc hội” thì tôi thích dùng từ “Dân biểu” của chế độ cũ hơn). Bản Hiến pháp mẫu của các nhà trí thức có Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Tôi nghĩ rằng điều kiện VN không cần có hai viện như thế và tìm thấy sự hợp lý khi Hiến pháp 1946 “cho” “Ban thường vụ” một số công việc, chức năng như của một Thượng nghị viện. Phải chăng, chọn nhân sự cho “Ban thường vụ” cần tham khảo cách chọn “Thượng nghị sĩ” mà các nhà trí thức đã đặt ra?

Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân : Tôi thích cách viết của Hiến pháp 1946 hơn “Hiến pháp mẫu” của các trí thức. Bởi vì, một số quy định ở phần này, Hiến pháp 1946 viết ngắn gọn, đầy đủ; còn “Hiến pháp mẫu” thì kèm giải thích, dài dòng hơn. Chẳng hạn, Điều 16, bản Hiến pháp mẫu quy định quá cụ thể: “Quyền không bị tra tấn và các quyền trong lĩnh vực tư pháp hình sự.  1Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. 2. Không ai bị bắt, giữ hay giam giữ một cách tuỳ tiện. Trong vòng 24 giờ kể từ khi bị bắt, người bị bắt phải được đưa ra trước một tòa án để xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc bắt giữ.3. Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. 4. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi nào không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện”.

Ngoài ra, theo tôi, vấn đề “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì Hiến pháp 1992 và bản dự thảo lần 2 quy định khá tốt nên tôi cũng copy vào khá nhiều. Thực ra, đây là vấn đề mở nên khi có sự thảo luận, góp ý kiến thì sẽ tiếp tục được bổ sung nhiều hơn.

Về Chủ tịch nước, Thủ tướng:  Thứ nhất, tôi dùng từ “Chủ tịch nước” thay vì “Tổng thống” như Hiến pháp mẫu thiết kế. Tôi nghĩ rằng Chủ tịch nước là từ đã được quen dùng và phổ biến hơn “Tổng thống”. Kể từ Hiến pháp 1946, bản hiến pháp của đại đa số các tầng lớp nhân dân, đã dùng từ “Chủ tịch nước”, nên nay sử dụng như vậy thì dễ được chấp nhận chung. Những năm qua, nhà nước Cộng hòa XHCN VN cũng dùng từ “Chủ tịch nước” là nguyên thủ quốc gia, nên đa số người dân đã quen. Còn “Tổng thống” chỉ có ở chế độ cũ miền Nam nên chắc chắn sẽ xa lạ với người dân Bắc Trung Bộ trở ra và cả rất nhiều người dân miền Nam hiện nay. Thứ hai: Hiến pháp 1946 quy định Chủ tịch nước đứng đầu Chính phủ, có Thủ tướng, nhưng được bầu thông qua Nghị viện. Dù không nói rõ về đảng phái chính trị nhưng rõ ràng Hiến pháp 1946 thiết kế vận hành theo mô hình “đại nghị” và có quy định về liên minh cầm quyền… Đây là vấn đề khá phức tạp, thậm chí là rắc rối cho các nước theo chế độ đại nghị khi rất khó khăn trong việc “liên minh” với nhau. Vì vậy, theo tôi, khắc phục vấn đề này bằng cách “cho” Nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ, có thủ tướng và do dân trực tiếp bầu ra là hợp lý. Còn các vị trí khác như Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng, các bộ trưởng thì do Chủ tịch nước chọn nhưng phải trong Danh sách đại biểu quốc hội. Làm như thế để nâng cao sự chủ động của người đứng đầu chính phủ trong việc chọn nhân sự hoạt động nhưng cũng phải phù hợp với nguyện vọng nhân dân (Nhân sự đó là các đại biểu đã được nhân dân bầu trực tiếp). Quy định này là sự kết hợp và phát huy, khắc phục được những điểm mạnh, yếu giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thứ ba: Bản Hiến pháp mẫu thiết kế Nguyên thủ quốc gia, vừa đứng đầu chính phủ (không có thủ tướng); nghĩa là theo Chế độ Cộng hòa Tổng thống (giống của Mỹ). Tuy nhiên, quy định người dân phải bỏ phiếu bầu trực tiếp cả Tổng thống và Phó Tổng thống là khó khăn và không có quốc gia nào trên thế giới bầu như thế cả. Tiếp nữa, quy định về “liên danh” (như thế nào?) giữa các ứng cử viên Tổng thống và Phó Tổng thống không được quy định rõ ràng. Điểm hay ở đây là các ứng cử viên phải nhận được 100.000 chữ ký là được ứng cử Tổng thống và Phó Tổng thống nhưng chắc chắn thực hiện trong thực tế cũng không kém phần phức tạp…

Về “chính quyền địa phương”: Quan điểm của tôi là vấn đề “Chính quyền địa phương” thì quy định trong Hiến pháp 1946 là khá tốt. Ở đó, Hội đồng nhân dân chỉ có ở cấp tỉnh và cấp xã, không có ở cấp huyện để tránh sự trung gian không cần thiết (thừa). Hiến pháp cũng quy định sao cho phát huy tính tự chủ địa phương nhưng không được trái hiến pháp và các quy định cấp trên. Riêng Hiến pháp mẫu đề cao tính “Tự chủ địa phương” nhưng gần như đó là sự tự chủ không giới hạn, rất dễ trở thành “cát cứ”. Điều 79. Tổ chức Chính quyền địa phương của bản Hiến pháp mẫu quy định: Việc tổ chức và thẩm quyền của chính quyền địa phương, thủ tục bầu các thành viên hội đồng (nếu có) và người đứng đầu chính quyền địa phương và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của chính quyền địa phương sẽ do luật định theo nguyên tắc chính quyền cấp càng thấp thì việc áp dụng dân chủ trực tiếp càng cao”. Thử đặt câu hỏi: Thế nào là “chính quyền cấp càng thấp thì việc áp dụng dân chủ trực tiếp càng cao”?

Những điểm mạnh đặc biệt của bản Hiến pháp mẫu: Theo thiển nghĩ của tôi, như đã trình bày, có vài điểm yếu rải rác trong bản Hiến pháp mẫu, còn đa số quy định trong đó là rất tiến bộ. Chẳng hạn, còn có rất nhiều từ “có thể”, chứng tỏ quan điểm của những người dự thảo bản Hiến pháp mẫu này là chưa rõ ràng ở những điểm đó. Ví dụ: “Đất đai có thể thuộc sở hữu tư nhân”; “Chính quyền địa phương ở mỗi cấp có thể có một hội đồng (không lẽ có thể có hai, hoặc không có một hội đồng nào? – Tôi thử hỏi) và bộ máy hành chính nhà nước cấp địa phương”…

Có một vấn đề là sau khi bản “Tập viết dự thảo Hiến pháp” của tôi được Ban Biên tập “Cùng viết Hiến pháp” đưa lên với tựa đề “Dự thảo hiến pháp tham khảo”, nhiều người đã “chửi” tôi là “ăn cắp” đến trên 50% các quy định của bản Hiến pháp mẫu của các nhà trí thức lớn. Nhiều quy định trong Hiến pháp mẫu được tôi copy và giữ nguyên văn. Điều đó chứng tỏ rằng tôi đánh giá rất cao bản Hiến pháp mẫu này! Những quy định về tòa bảo hiến; quy định về các cơ quan hiến định độc lập…, được tôi “bê” nguyên vào bản “tập viết” của mình. Tôi đã nói rõ trong bản “giải trình” của mình về việc tiếp thu những điều mà tôi cho là hay của bản Hiến pháp mẫu, hiến pháp 1946, HP 1992…

Thực ra, tôi nghĩ rằng những người chỉ trích tôi “ăn cắp” đã không hiểu rằng việc copy để biên tập, xây dựng dự thảo một bản hiến pháp khác với việc copy trong các hoạt động văn học, nghệ thuật, phát minh, sáng chế… Chúng ta đang cùng nghiên cứu, thảo luận, vận dụng các mô hình, ý tưởng, cơ chế vận hành hệ thống chính trị…, để đưa vào dự thảo hiến pháp, tức là “Cùng viết Hiến pháp”. Vì vậy, các bản tham khảo nào hay (kể cả hiến pháp các nước)  thì cần phải kế thừa, ứng dụng đưa vào ngay; chỗ nào dở cần phải loại bỏ. Mục đích là cùng xây dựng một Dự thảo Hiến pháp tốt thì sao gọi là “ăn cắp bản quyền”? Hơn nữa, tôi nghĩ khi các trí thức cho rằng đó là “Hiến pháp mẫu” thì nghĩa là nhà nước và mọi người có quyền dùng để tham khảo, tiếp thu, vận dụng, chứ không phải là “bản quyền” bất di bất dịch và không được phép sử dụng (!)…

KHÔNG NGỜ CÓ SỰ HIỂU LẦM

Mình đã thức đêm nay để viết bản giải trình ở dưới để gửi cho anh chủ trang Anh Ba Sàm và các giáo sư Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn… (Những người vừa lập ra trang “Cùng viết Hiến pháp”)

LỜI BAN BIÊN TẬP CÙNG VIẾT HIẾN PHÁP

Ngày 7/2/2013, chúng tôi có nhận được bản dự thảo hiến pháp của tác giả Dương Phi Anh (không phải Nguyễn Phi Anh – chúng tôi chân thành xin lỗi tác giả và bạn đọc vì sự sai sót này và đã sửa lại tên của tác giả).
Kèm theo bản dự thảo, tác giả Dương Phi Anh còn viết một bản thuyết trình, giải trình về những tồn tại, hạn chế của hiến pháp hiện hành và về việc xây dựng dự thảo. Lúc đầu, vì nghĩ rằng bản giải trình, thuyết trình này tác giả gửi riêng cho Ban biên tập và có một số nội dung tách biệt nên chúng tôi không đăng kèm dự thảo mà dự định để đăng thành một bài riêng; tuy nhiên, sau khi đọc lại, chúng tôi thấy việc đăng kèm dự thảo là cần thiết để tránh những hiểu lầm. Vì vậy, chúng tôi đã bổ sung ở dưới đây, sau dự thảo của tác giả.
Trân trọng,
BÌNH LUẬN CỦA ANH BA SÀM VÀO NGÀY 11 VÀ 12/2/2013

1- Tối qua, một luật gia liên lạc với chúng tôi đưa ra một thắc mắc quan trọng. Đó là theo ông, không hiểu sao trang “Cùng viết Hiến pháp” lại vừa cho đăng Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Nguyễn Phi Anh), để bên cạnh Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Bauxite Việt Nam), mà cái “dự thảo” của Nguyễn Phi Anh kia lại có tới khoảng 50% nội dung giống với bản Dự thảo Hiến pháp của Bauxite Việt Nam (tức bản tham khảo, đi kèm “Kiến nghị 72″ của các nhân sĩ trí thức), mà theo ông, những phần được coi là sao chép này, thì chưa từng có ở bản hiến pháp nào trên thế giới cả.
Thắc mắc đó mới chỉ là … nghi vấn. Song, có một điều đáng nghi vấn, đáng ngờ hơn nữa, có thể thấy rõ hơn về một sự sắp đặt có tính toán và thiếu trung thực, của những người điều hành trang “Cùng viết Hiến pháp”, nhất là nó lại là một trang web hết sức quan trọng của một nhà báo lõi đời – cựu TBT VietNamNet Nguyễn Anh Tuấn. Để hiểu rõ về đánh giá đó, xin trở lại từ ngày 3/2/2013, sau khi chúng tôi thắc mắc về bài vở trên “Cùng viết Hiến pháp” toàn là từ báo nhà nước, họ cho đăng bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 – boxitvn. Thế nhưng, khi đó, người ta đã có vẻ “quên” không đăng luôn cả bản Dự thảo Hiến pháp 2013, bất chấp bản dự thảo này nằm ngay cùng một trang với bản Kiến nghị. Và … họ có “quên”, hay là cố tình “để dành” cho một toan tính khác? Xin coi tiếp:
Trong bản Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Bauxite Việt Nam) nói ở trên mới được đăng hôm qua, BBT “Cùng viết Hiến pháp” có lời nói đầu như sau: “Theo chúng tôi biết, bên cạnh Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 của Quốc Hội, còn có bản Dự thảo Hiến pháp 2013 do một nhóm trí thức đề xuất trên trang Boxitvn.net. Bản dự thảo này được kèm theo Kiến nghị về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (mà vừa được đại diện nhóm trí thức khởi xướng trao cho Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào ngày 4/2/2013). Trước đó chúng tôi đã giới thiệu bản Kiến nghị về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, nay xin trân trọng giới thiệu vơi bạn đọc bản Dự thảo Hiến pháp năm 2013 đăng trên trang Boxitvn.net.”
Như vậy có thể tạm hình dung “kịch bản” là: cố tình không đăng bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đi kèm bản “Kiến nghị 72″, bất chấp một điều quá dễ hiểu là tuy được coi như tài liệu tham khảo, nhưng nó hết sức quan trọng để độc giả đánh giá tinh thần bản Kiến nghị, thái độ trách nhiệm và phương pháp làm việc khoa học của những người khởi xướng, và nhiều điều nữa, trong đó có việc nó phục vụ người đọc rất nhiều về kiến thức pháp luật, hiến pháp. “Cùng viết Hiến pháp” đã cố tình như vậy, để tới nay mới tung ra bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đó, để bên cạnh một bản “dự thảo” khác, được cho là cọp lại rất nhiều nội dung của Dự thảo Hiến pháp 2013 của các nhân sĩ trí thức. Lại còn nói là “theo chúng tôi biết …”, ra vẻ rất vô tư, như thể việc bản Dự thảo Hiến pháp 2013 đi kèm “Kiến nghị 72″ là chuyện “bí mật”, họ biết qua nguồn thông tin riêng thôi, chứ không phải ai ai cũng đã biết cả rồi, không phải là họ đã cố tình cắt xén một tài liệu quan trọng đến vậy, theo kiểu khuất tất vậy. Lại còn “tinh tế” (hoặc kém tinh tế?) tới độ cuối bản Dự thảo Hiến pháp 2013, họ đã không để đường dẫn (link) tới bản gốc, đi kèm bản Kiến nghị, trên trang chủ Bauxite Việt Nam.
Còn câu hỏi rằng việc họ cắt xén tài liệu, rồi giờ sắp xếp phần bị giấu nhẹm đi đó bên cạnh một bản “nhái” là để nhằm những mục đích gì, thì xin được tạm bỏ ngỏ ở đây.
Tuy nhiên, để thận trọng hơn cho những đánh giá có tính nghi vấn cao của chúng tôi ở trên, xin mời những người khởi xướng và điều hành trang “Cùng viết Hiến pháp” trả lời. Cũng xin lưu ý, để tránh gây hiểu lầm từ việc trang “Cùng viết Hiến pháp” có thể làm để “sửa sai” bằng cách lặng lẽ thêm nội dung vào, chỉnh sửa lại câu chữ sau khi đã đăng bài, không một lời thông báo, mà nhiều báo điện tử trong đó có VNN từng làm, chúng tôi đã tải xuống, lưu lại toàn bộ các bài trên, kể cả trang chủ sáng nay với 2 bản “dự thảo” bên cạnh nhau.
Bổ sung, hồi 10h35′: muốn hiểu rõ hơn vụ việc trên, thậm chí đề phòng có kẻ bên trong Ban biên tập trang “Cùng viết Hiến pháp” đã thao túng, gây dư luận không tốt và chia rẽ, chúng tôi đã nhờ người liên lạc với các thành viên BBT trang này. Một vị cho biết không rõ tác giả “Nguyễn Phi Anh” hay “Dương Phi Anh” là ai và cả việc có hay không người này đã sao chép “cơ học” nhiều nội dung trong bản Dự thảo Hiến pháp 2013 (đi kèm “Kiến nghị 72″) mà không ghi chú rõ ràng.
Bổ sung, hồi 12h25′: trên trang “Cùng viết Hiến pháp” vừa có bổ sung một số nội dung mới nhất cuối buổi sáng nay của cả BBT lẫn tác giả bài viết. Chúng tôi sẽ xin bình luận về vấn đề này vào sáng mai.
2. – Tiếp tục phần bình luận sáng qua về chuyện trang “Cùng viết Hiến pháp” sử dụng bài Một dự thảo hiến pháp để tham khảo (Dương Phi Anh). Trước tiên, xin hoan nghênh những người biên tập và tác giả đã kịp thời “sửa sai” bằng thông báo bổ sung, như lời “trần tình” về những sai sót, bất bình thường của bài viết. Tuy nhiên, nếu theo lời giải trình của tác giả, coi “đây có lẽ là một việc làm ‘cho vui’, không có mục đích gì cả ”, và đúng là được gửi liền với bản Dự thảo Hiến pháp mà BBT “Cùng viết Hiến pháp” lại cắt bỏ, với giải thích rằng định đăng “thành một bài riêng” ,thì lại càng ngạc nhiên về lối tư duy và phương pháp làm việc kỳ lạ của họ, sau hành động cắt xén bản Dự thảo Hiến pháp 2013 khỏi bản “Kiến nghị 72” trước đó.
Không muốn tiếp tục phân tích quá nhiều những bất bình thường trong lối làm việc của những người điều hành trang “Cùng viết Hiến pháp” nữa, để đặt một dấu hỏi, rằng phải chăng các vị có tên trong nhóm khởi xướng và Ban Biên tập đã và đang để những người xa lạ nào khác điều hành trang web của mình? Thực tế trong mấy ngày qua và thông tin có được về một trang báo điện tử trong nước có liên quan (xin chưa nêu tên), chúng tôi đặt dấu hỏi này, và nếu đúng vậy thì quả là rất đáng ngại. Cái “ngại” nhất … đã được Người Buôn Gió cảnh báo ở trên!
Bổ sung, 7h50′ – Nhà giáo Hà Văn Thịnh phản hồi: “Hề hề, xin gửi tới Gió lời chúc đầu năm của làn Đông phong mát mẻ của đất trời: Quả là phát hiện độc chiêu về chiêu độc – có thật nhiều kiến nghị để hòa tan, làm loãng, để canh hẹ rối bời rồi lấy cớ đó coi Kiến nghị của 72 trí thức như là cùng giỏ, dễ phủi tay… Lạy trời sao cho dân ta không để cho chúng nó vận chiêu thức tàn hại ấy”.

MÌNH ĐÃ GỬI GIẢI TRÌNH ĐỂ MONG TRÁNH SỰ HIỂU LẦM 

Kính gửi: – Trang mạng Anh Ba Sàm
– Các giáo sư chủ trường trang “Cùng viết Hiến pháp”.

Tôi là Dương Phi Anh. 
Tôi là người trực tiềp biên tập bản “dự thảo Hiến pháp” mà thực tế tôi gọi là “Tập viết dự thảo Hiến pháp”.
Trước hết, tôi vô cùng xin lỗi quý vị vì những ngày qua do đi thăm hỏi bạn bè, bà con nhân dịp Tết cổ truyền, về nhà quá mệt nên tôi không đọc được những tranh luận, thậm chí là nghi ngờ, hiểu lầm mà Trang Anh Ba Sàm nêu ra với BBT trang “Cùng viết Hiến pháp”. Nay, lức 10 giờ 52 phút ngày 12/2/2013, tôi đọc được cả 2 lời bình của trang Anh Ba Sàm và bản đăng đã sửa chữa trên trang “Cùng viết Hiến pháp”, thấy cần minh định để tránh sự hiểu lầm với những người mà tôi ngưỡng mộ (cả chủ trang Anh Ba Sàm, các trí thức và cả các giáo sư chủ trương trang “Cùng viết Hiến pháp”), vì tôi cảm nhận được sự công tâm, mong muốn sự tốt đẹp của họ…
Tôi bắt đầu có hứng thú “soạn chơi” bản “tập viết dự thảo Hiến pháp” sau buổi đưa ông Táo (3/2/2013). Đến ngày 7/2/2013 (27 Tết), tôi đã hoàn tất cơ bản về bản “tập viết” này. Trên Facebook cán nhân ngày 7/2/2013, tôi có “rao” thế này: “Chỉ cần có kỹ thuật Copy – Paste, và được học một tý về nguyên tắc lập hiến, chưa đầy 5 ngày, mình biên tập xong 1 bản dự thảo HP rất là … “của dân, do dân, vì dân”. Mình khá hài lòng về nó ! Đến nỗi, mình đủ tự tin gửi cho trang “Cùng viết HP” của các GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn… và có 1 người thầy của mình. Nó sẽ được mình post lên vào dịp giao thừa như một niềm vui đầu năm mới…”. 
(Địa chỉ ở đây: http://www.facebook.com/phianh.duong.3?ref=tn_tnmn)
Và đúng đêm 7/2, tôi đã gửi mail cho trang “Cùng viết Hiến pháp”. Sau khi kê khai các mục bắt buộc theo quy chế của trang “Cùng viết Hiến pháp”, trong thư, tôi có giới thiệu thêm thế này: “Kính gửi các giáo sư, các trí thức chủ trương trang “Cùng viết Hiến pháp”. Tôi tên: Dương Phi Anh. Nghề nghiệp: Nghề tự do (Nguyên PV báo P…). Hưởng ứng lời ngỏ của quý vị chủ trương trang “Cùng viết Hiến pháp”, tôi mạo muội soạn bản thảo này. Rất mong nhận được những chia sẻ, đóng góp của quý vị. Chân thành cám ơn! Dương Phi Anh”. Trong file đính kèm là bản “dự thảo” và bản “THUYẾT TRÌNH, GIẢI TRÌNH VỀ BẢN DỰ THẢO HIẾN PHÁP NÀY”, đã được trang “Cùng viết hiến pháp” đăng kèm theo (nguyên văn) như quý vị đã thấy. 
Ngày hôm sau, tôi kiểm tra lại hộp thư thì không thấy phản hồi nào từ BBT trang “Cùng viết Hiến pháp”. Tôi nghĩ chắc họ sẽ không đăng, hoặc do tết nhất bận rộn nên BBT chưa xem được. 
Cũng vì vậy, vào lúc 23 giờ 10 phút ngày 8/2, tôi gửi cho trang Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập (Vì cách đó 1 năm, tôi có viết mấy bài cho trang này và được chọn đăng). Lần này, tôi lại có những chỉnh sửa vài lỗi trong bản “tập viết dự thảo”, và cũng kèm theo bản “THUYẾT TRÌNH, GIẢI TRÌNH VỀ BẢN DỰ THẢO HIẾN PHÁP NÀY” (kèm theo file dưới đây). Bản “Giải trình” có bổ sung thêm mấy ý mà tôi nghĩ cũng chưa chuẩn xác về khái niệm lắm nhưng tôi cũng gửi…
Trong thư gửi nhà văn Nguyễn Quang Lập, tôi viết thế này: “Vậy là đã 1 năm nay, kể từ vụ ông Đoàn Văn Vươn, hôm nay em mới có dịp gửi bác một bài mang tính ứng dụng nghiên cứu. Đó là em hoàn chỉnh một bản dự thảo Hiến pháp, phát triển từ một bài tập về nhà của ông thầy giáo dạy trước đây, trên cơ sở tiếp thu những điều mà em cho là rất tốt của các bản Hiến pháp 1992, 1946… Và đặc biệt là bản Hiến pháp nẫu do 72 trí thức trình vừa qua. Trong bản giải trình, em có nói rõ là không đồng ý với tất cả ý kiến bản Hiếp pháp mẫu, và đã nhắc đến một vài nhược điểm..
…Vì vậy, em mạnh dạn gửi bác “bài tập” này. Nếu được thì bác sử dụng, không được thì em cũng vui vẻ như bình thường, vì đó như là một bài tập…
Chân thành cám ơn bác!”.

Trong đó file “dự thảo” gửi cho nhà văn Nguyễn Quang Lập, ngay sau tiêu đề “HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA”, tôi mở ngoặc đơn với nội dung “(Phát triển từ bài tập về: Tập viết dự thảo Hiến pháp”. Nói chung, trong các bản giải trình kèm theo, tôi dẫn nguồn rất rõ về việc “copy”, thậm chí nói rõ “Một số quy định ở đây được lấy theo Bản dự thảo HP mẫu của các trí thức.”; hoặc “2.8. Quy định về các cơ quan hiến định độc lập và việc sửa đổi, tu chính HP thì theo tôi bản dự thảo HP mẫu của các trí thức quy định chặt chẽ nên đã có sự trích dẫn vào đây.”…(Xin quý vị hỏi nhà văn Nguyễn Quang Lập thì rõ). Tuy nhiên, lúc 6 giờ 39 phú, ngày 9/2, nhà văn Nguyễn Quang Lập phản hồi như sau: “Cám ơn DPA, tiếc là bài viết quá dài, khó đăng quá” (Nếu ai không tin, xin hỏi nhà văn Nguyễn Quang Lập thì rõ).
Cũng vì vậy, sáng 29 Tết (tức 30), trên blog cá nhân, tôi quyết định đăng bài với những sửa đổi mới hơn (Tuy nhiên, do bận và mệt mỏi với công việc cuối năm, trong các bản gửi đi và đăng vẫn còn một số lỗi chính tả, lỗi đánh máy và cả lỗi không kiểm tra kỹ một số nội dung copy nên vẫn sót từ “Nghị viện” chẳng hạn…). Facebook của tôi với lời tựa và đường dẫn như sau: “TẬP VIẾT DỰ THẢO HIẾN PHÁP
Tiễn ông Táo Nhâm Thìn 2012 đi, mình bắt tay vào công việc “tập viết dự thảo Hiến pháp”. Trước khi đón ông Táo Quý Tị 2013 và ông bà tổ tiên về vui Tết, mình đã kịp hoàn chỉnh lần 1 bản “tập viết dự thảo Hiến pháp” này. Có cảm giác giống như chạy nước rút hoàn thành công trình nhân dịp đón năm mới…
Phải nói đây là một trong những công việc mình khá hài lòng trong năm, mặc dù cận Tết rất tất bật. Mình trộm nghĩ và tin tưởng, rằng nếu đất nước VN thực sự muốn xây dựng, thực thi một bản Hiến pháp phát huy cao dân chủ, bình đẳng, không phân biệt thì đất nước sẽ tiến nhanh như vũ bão về mọi mặt. Như thế thì không có lý do gì mà Đảng Cộng sản VN không có vị trí trang trọng trong lòng dân tộc! Điều mà nhiều trí thức yêu nước (và cả mình cũng vậy) rất mong muốn…
(Để dễ dàng theo dõi bài quá dài này, xin đọc phần “Thuyết trình, tường trình về dự thảo…” ở dưới đường dẫn này trước)
https://pvphianh.wordpress.com/2013/02/08/tap-viet-du-thao-hien-phap/
THUYẾT TRÌNH, GIẢI TRÌNH VỀ BẢN DỰ THẢO HIẾN PHÁP NÀY
DƯƠNG PHI ANH
Với trách nhiệm của công dân,….” 
Như vậy, trong tất cả các bản gửi đi và đăng trên blog cá nhân, tôi đều dẫn nguồn rõ ràng!
Theo tiến trình thời gian như vậy, đến đây, chắc quý vị đã thấy rất rõ là trong Lời Ban biên tập Cùng viết Hiến pháp viết rằng: “Ngày 7/2/2013, chúng tôi có nhận được bản dự thảo hiến pháp của tác giả Dương Phi Anh (không phải Nguyễn Phi Anh – chúng tôi chân thành xin lỗi tác giả và bạn đọc vì sự sai sót này và đã sửa lại tên của tác giả).
Kèm theo bản dự thảo, tác giả Dương Phi Anh còn viết một bản thuyết trình, giải trình về những tồn tại, hạn chế của hiến pháp hiện hành và về việc xây dựng dự thảo. Lúc đầu, vì nghĩ rằng bản giải trình, thuyết trình này tác giả gửi riêng cho Ban biên tập và có một số nội dung tách biệt nên chúng tôi không đăng kèm dự thảo mà dự định để đăng thành một bài riêng; tuy nhiên, sau khi đọc lại, chúng tôi thấy việc đăng kèm dự thảo là cần thiết để tránh những hiểu lầm. Vì vậy, chúng tôi đã bổ sung ở dưới đây, sau dự thảo của tác giả.
Trân trọng,”
là hoàn toàn chính xác!
Cũng xin nói thêm rằng BBT trang “Cùng viết Hiến pháp” (cũng như nhà văn Nguyễn Quang Lập) hoàn toàn chưa hề biết tôi ngoài đời, ngoại trừ có một người dạy tôi 1 môn đã hơn 15 năm, chắc chắn ông cũng không nhớ tôi! Tôi chỉ viết như một sự “tùy hứng” lúc có thể bố trí được thời gian và thấy hợp lý thì gửi đi như một niềm vui thử nghiệm, kiểm nghiệm về mình mà thôi, chứ không vì gì khác. Và trong tất cả các bài viết của tôi, tôi thường dẫn nguồn hết sức rõ ràng, đến nỗi đã có bạn nói rằng “dân nguồn nhiều quá”…
Cũng xin thêm 1 ý, trước đó, trong các STT trên Facebook và trang blog của tôi kèm theo đường dẫn trong đó, tôi có những nhận xét mang tính cá nhân về thế nào là Hiến pháp…, và tôi còn dẫn bài của Giáo sư Hà Văn Thịnh “Vài nét về Hiến pháp Mỹ” như một lưu trữ cá nhân mà tôi rất thích thú…
Xin khẳng định lại lần nữa, tôi viết theo cảm nghĩ cá nhân, đặt mình vào việc như để hoàn thiện một bài tập về “viết dự thảo Hiến pháp” theo cách của mình, khách quan, tôn trọng kiến thức người khác mà mình trích dẫn, chứ hoàn toàn không hề đứng về bên nào cả…
Một lần nữa, tôi xin sự thứ lỗi vì đã để có sự hiểu lầm.
Trân trọng!
Dương Phi Anh

Diễn đàn: Từ Hiệp định Paris đến “Bên Thắng Cuộc”

Theo ABS

Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX

Nguyễn Ngọc Giao *

Hiệp định Paris “về kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” đã được kí kết ngày 27 tháng giêng năm 1973 tại đại sảnh đường Trung tâm Quốc tế Hội nghị ở đại lộ Kléber. Cách Khải hoàn môn vài trăm mét, tòa nhà này thường được người dân Paris gọi bằng cái tên lịch sử là Hôtel Majestic. Trong Thế chiến lần thứ hai, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, Khách sạn Majestic trở thành trụ sở của bộ tư lệnh quân đội Đức quốc xã. Sau ngày giải phóng, Bộ ngoại giao Pháp sử dụng cơ ngơi này làm trung tâm hội nghị quốc tế. Trong gần năm năm trời, từ ngày 13.5.1968 đến ngày 27.1.1973, hội trường là nơi diễn ra cuộc thương lượng chính thức giữa Việt Nam và Mĩ. Hơn một tháng sau ngày kí kết Hiệp định Paris, Khách sạn Majestic cũng là nơi họp Hội nghị quốc tế về Việt Nam với sự tham gia của tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim và phái đoàn đại diện của 12 chính phủ (4 bên tham gia Hội nghị Paris : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hoa Kì, Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, Việt Nam Cộng Hòa ; 4 đại cường thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ : Pháp, Anh, Liên Xô, Trung Quốc ; 4 nước thành viên Ủy ban giám sát quốc tế : Ba Lan, Canada, Hungary, Indonesia). Gần 20 năm sau, đây cũng là nơi diễn ra Hội nghị quốc tế về Campuchia (1991).

 

Ngày nay, Majestic lại trở thành khách sạn, một trong mấy “palace siêu hạng” của Paris, nhưng đã đổi chủ. Cũng như đội bóng đá PSG (đội này vừa sắm David Beckham), chủ nhân là người vương quốc dầu hỏa Qatar. Bốn mươi năm đã trôi qua, số người Việt Nam ra đời sau ngày 27.1.1973 dễ lên tới hai phần ba dân số Việt Nam. Từ đó, bao nhiêu biến cố đã dồn dập xảy ra : ngày giải phóng miền Nam (đối với cả triệu người là ngày “mất nước”, hay “quốc hận”), cải tạo xã hội chủ nghĩa, trại “cải tạo”, chiến tranh với Pol Pot, chiến tranh với Trung Quốc, liên minh Washington – Bắc Kinh bao vây, cấm vận, thuyền nhân, khủng hoảng, rồi đổi mới, mở cửa, tự do hóa về kinh tế, thối nát tham nhũng tràn lan, đàn áp chính trị, khối Liên Xô sụp đổ, khấu đầu với Trung Quốc, khủng hoảng toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị… , cái mốc Hiệp định Paris 1973 bị đẩy xa vào quá vãng, hai trong bốn bên ký kết Hiệp định — Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN và Chính phủ Việt Nam cộng hòa — đã biến mất trên bản đồ chính trị địa lý Việt Nam.

Điều đáng quan ngại, thậm chí bi thảm, là Việt Nam trở thành một dân tộc không có ký ức lịch sử, ít nhất về  lịch sử một trăm năm gần đây. Thử hỏi chín mươi triệu người Việt Nam, ai muốn tìm hiểu lịch sử thế kỉ XX của nước mình, thì kiếm đâu ra sách ? Tủ sách sử học Việt Nam đã có những công trình giá trị về khảo cổ học, về thời Lý, Trần, Lê. Nhưng từ thời Nguyễn trở lại đây, tuyệt nhiên không. Cách đây hơn bốn năm, Hội sử học Việt Nam đã tổ chức hội thảo về nhà Nguyễn tại Thanh Hóa. Cho đến nay, báo chí “lề phải” vẫn không được nói tới cuộc hội thảo khoa học này, chỉ vì những mặt tích cực của nhà Nguyễn được nêu lên ở hội thảo không phù hợp với “đánh giá của Đảng về nhà Nguyễn”. Lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX và XX là vùng cấm đối với giới sử học người Việt, là vùng “khai thác độc quyền” (nói cho chính xác : độc quyền không cho khai thác) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Hệ quả của quy định này là : sách giáo khoa lịch sử chỉ sao chép những câu kinh kệ của “sử đảng”, nghĩa là một cách viết sử bóp méo, đầy lỗ hổng (chỉ cần đọc những trang “sử” ấy về ĐCS Đông Dương và Nquyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến đầu năm 1941). Hệ quả của hệ quả : một học sinh có suy nghĩ, một độc giả có chút ít tinh thần phê phán, chỉ có thể rút ra một kết luận, là “không thể tin được” những thứ sử sách chính thống ấy (mặc dù trong đó không thiếu những khẳng định đúng đắn tuy sơ lược), và nguy hại hơn nữa, chỉ cần nhẹ dạ một chút, là sẵn sàng tin những khẳng định ngược lại. Và cứ như thế, mấy thế hệ liên tiếp đã phải ăn cháo lú lịch sử, không biết gì về những trang sử kì vĩ và đầy đau thương của dân tộc mình, những trang sử đã góp phần thúc đẩy dòng chảy của lịch sử nhân loại thế kỉ XX.

Giữa chốn mịt mù ấy, hai tập “Giải Phóng” và “Quyền Bính” của Bên Thắng Cuộc (BTC) mà nhà báo Osin Huy Đức xuất bản qua mạng đã nhanh chóng đi tới (nếu không tới mắt thì tới tai) hàng trăm ngàn, có lẽ cả triệu, người Việt Nam, từ nam chí bắc, từ Orange County đến Tokyo, Melbourne, qua Washington DC, Paris, Berlin, Moskva… với tốc độ và khả năng quảng bá của internet. Đây không phải là một công trình nghiên cứu sử học (những ai phê phán nó vì nó không phải là tác phẩm sử học, chẳng qua là cố ý đâm giáo vào cối xay gió), mà một pho sử liệu, chứng từ trung thực, phong phú, đồ sộ, mà chưa bao giờ một nhà sử học hay một nhà báo điều tra, đã thu thập, phỏng vấn, ghi chép được, liên quan tới thời gian phần tư cuối của thế kỉ XX. Đó là thời gian mà đất nước, xã hội và mỗi con người Việt Nam (còn sống) đã trải qua những đổi thay ghê gớm, sâu sắc, dư chấn của những cuộc “động đất lịch sử” ấy bây giờ vẫn chưa dứt mà vẫn còn sẽ tiếp tục. Cho nên, sự đánh giá BTC sẽ dao động giữa hai thái cực : một mặt là “ngợp” trước những thông tin chưa từng thấy hoặc rất ít người biết, mặt khác là “thất vọng” hay “mong mỏi” những tác phẩm của tác giả hay của người khác về những giai đoạn, những sự việc mà BTC chưa đề cập. Đây là tôi chỉ nói tới nhận định của người đọc muốn khách quan tiếp nhận công trình này. Còn phản ứng của độc giả, phản ứng thiện cảm (với ít nhiều bảo lưu) của tuyệt đại đa số, cũng như phản ứng Pavlov của các “dư luận viên” mà nhà nước đang huy động để “đánh Huy Đức” và của các chuyên gia “chống cộng tới chiều” đã tổ chức biểu tình ở Khu Bolsa, lại là một chủ đề khác, đối tượng của một điều tra xã hội học, mà nếu làm được, sẽ giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều về não trạng Việt Nam ngày nay. (xin xem bài của Hòa Vân : Bên Thắng Cuộc và dư luận).

Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không làm được việc nào trong hai việc kể trên (nhận định về tác phẩm, phân tích phản ứng công chúng). Chỉ xin đề cập tới một vấn đề, liên quan tới Hiệp định Paris và cuốn sách BTC mà kỉ niệm 40 năm và xuất bản lại trùng hợp trong thời gian. Vấn đề ấy cũng là nền tảng cho phần lớn các cuộc tranh luận và sự mâu thuẫn giữa các lập trường. Đó là : tính chất cuộc chiến tranh Việt Nam (dù ta quy định thời gian là 1945-1975, hay 1955-1975, hay 1960-1975). Chiến tranh giải phóng, nghĩa là chiến tranh giành độc lập, thống nhất ? Hay nội chiến (Quốc Cộng) ? Hay chiến tranh ủy nhiệm (War by Proxy) nằm trong bối cảnh thế giới Chiến tranh lạnh ?

Thật ra, trong một cuộc đối thoại bình tĩnh hay khi ta bình tâm tự vấn, chắc ít ai phủ nhận một trong ba yếu tố kể trên (chiến tranh giải phóng, chiến tranh ủy nhiệm, nội chiến), nhưng khi bàn tới bản chất của từng yếu tố, và nhất là quan hệ tương tác của ba yếu tố ấy (cái nào là chính, là quyết định…) thì chắc chắn là mỗi người một ý (có khi ý kiến của một người cũng thay đổi theo thời gian). Ngày nào chưa có một cuộc thảo luận thật sự, trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau đi tìm sự thật, thì khó xác định và “khoanh” lại những khác biệt không thể hóa giải. Và chỉ có ý muốn chung là xây dựng trong sự tôn trọng khác biệt mới cho phép chúng ta vượt qua những khác biệt để đi tới tương lai.

Trong tinh thần ấy, xin nêu lên một vài suy nghĩ và nhận định, nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận chung :

Chiến tranh giải phóng 1945-1975 ?

Giải phóng gắn liền với tự do, người chiến thắng năm 1975 lại là cộng sản, nên dễ hiểu là nhiều người dị ứng với cụm từ “chiến tranh giải phóng” mà từ khước mọi cuộc đối thoại. Chính xác phải nói “chiến tranh giải phóng dân tộc”, đối tượng của sự giải phóng là dân tộc, mục tiêu của nó là chấm dứt sự thống trị của nước ngoài. Chiến tranh giải phóng thắng lợi, dân tộc tự do, nhưng người dân không nhất thiết được tự do : điều này đã từng thấy trong nửa sau thế kỉ XX tại các nước thuộc địa, trong đó có nước ta. Phân biệt tự do cho dân tộc và tự do cho công dân, chúng ta mới bình tĩnh đọc câu nói ý nhị của Huy Đức trong lời mào đầu tập 1 : “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 — ngày nhiều người tin là Miền Bắc đã giải phóng Miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là Miền Bắc”. Tác giả chơi chữ, nhờ đó mà nhiều người hả hê, không ít người bực bội, nhưng đằng sau sự chơi chữ là một sự thật khó chối cãi (chỉ lấy một thí dụ cụ thể : tự do báo chí ở Sài Gòn (mặc dầu chính quyền Thiệu chuyên nghề “hốt cắt đục”) đã biến mất sau ngày 30.4.75, về sau đã nhen nhúm một chút trên báo chí cả nước, bắt đầu từ những tờ báo Thành phố như Tuổi Trẻ). Tất nhiên, điều này không liên quan tới nền độc lập dân tộc mà chúng ta cần trở lại để bàn về bản chất cuộc chiến tranh.

Có người thừa nhận rằng cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) là chiến tranh giải phóng dân tộc chống lại cuộc tái chiếm có tính chất thực dân chủ nghĩa của quân đội Pháp, nhưng cuộc chiến tranh sau 1955 là nội chiến Nam Bắc, dù không phủ nhận vai trò và sức nặng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến này.

Cả hai vế đều có chỗ không ổn. Đúng là chiến tranh 45-54 là chiến tranh giải phóng, nhưng ta không nên quên rằng khi Điện Biên Phủ được giải phóng, hai bên chiến tuyến phần lớn là người Việt Nam : bên chiến thắng là Quân đội Nhân dân Việt Nam (có cố vấn người Trung Quốc, nhưng họ chỉ là cố vấn, và không có vai trò quyết định : ngày 25 tháng giêng 1954, khi Võ Nguyên Giáp quyết định “rút pháo ra”, ông đã cưỡng lại ý kiến của đoàn cố vấn Trung Quốc), bên thất trận 2/3 là người Việt, 1/3 người Âu Phi. Vũ khí và trang bị của bên thất trận là của Mĩ, vũ khí bên thắng trận là của Liên Xô (qua Trung Quốc), Trung Quốc và… Mĩ (hơn một nửa vũ khí thả dù sau ngày 13.3.54 rơi vào tay kháng chiến). Còn cuộc chiến tranh thứ nhì, có yếu tố nội chiến (chúng tôi sẽ phân tích ở một phần dưới), nhưng khách quan mà nói, vai trò của Hoa Kì liên tục từ 1950 đến sáng ngày 30 tháng tư 1975 không thể chối cãi là vai trò của một siêu cường, muốn quyết định số phận của Việt Nam, thông qua những chính quyền mà họ đã tạo dựng và khi cần thiết thì trừ khử, bãi bỏ hay bỏ rơi (mà Mĩ bỏ thì chỉ có rơi, không thể gì khác).

Do đó, cuộc chiến tranh 1945-1975, dù có yếu tố chiến tranh ủy quyền, chiến tranh ý thức hệ, và nội chiến, vẫn liên tục từ đầu chí cuối, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà mục tiêu tối hậu là độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia. Thừa nhận điều đó không có gì sỉ nhục đối với những người ở “bên thua cuộc” nếu lí do khiến cho họ đứng bên này chiến tuyến, chống lại những người chống lại ngoại bang, là lý tưởng tự do, dân chủ thực sự, điều mà rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa hề mang lại. Phủ nhận điều đó, sợ rằng bản thân những người tuyên bố ra lời cũng không thuyết phục được chính mình, mà mãi mãi hận thù “Việt cộng cướp nước”, oán hận “Mỹ bỏ rơi”.

Nội chiến ?

Đối với quan điểm tuyên truyền “chính thống” của Đảng Cộng sản Việt Nam, “nội chiến” là một điều cấm kị. “Hai mươi năm nội chiến từng ngày”, câu hát của Trịnh Công Sơn đã khiến cho tác giả nhiều phen điêu đứng sau 1975, cho đến nay vẫn bị cấm. Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu là tay sai của Pháp và Mỹ, họ được sử dụng để phục vụ cho chính sách của Pháp, rồi của Mỹ, rồi khi nào họ không phục vụ như ý nữa, thì bị loại bỏ không thương tiếc, dù khi bị loại bỏ rồi, sẽ có những hậu quả tiêu cực ngoài ý muốn (trường hợp Ngô Đình Diệm). Điều đó khó ai phủ nhận, nhưng với bộ máy tuyên truyền, họ phải được mô tả như những tay sai đơn thuần, những con rối không xương sống. Lối tuyên truyền đơn sơ thô bạo đó sẽ phản tác dụng khi nó gặp phải những thực tế mà nó không thể lí giải. Sự kháng cự của Nguyễn Văn Thiệu trước ngày khai mạc Hội nghị Paris (cuối năm 1968, đầu năm 1969), hay cuối năm 1972, khi hai phái đoàn Lê Đức Thọ – Xuân Thủy và phái đoàn Kissinger đã đi tới thỏa thuận về văn bản Hiệp định Paris, bỗng nhiên được nhìn nhận như bằng chứng của sự “dũng cảm” (chữ dùng của Huy Đức). Tất nhiên rồi, “dũng cảm” không phải là thuộc tính độc quyền của “ông chủ” (khỏi cần kể ra đây những thí dụ về những ông chủ thiếu dũng cảm) : tay sai có thể dũng cảm phi thường khi thấy ông chủ bỏ rơi.

Nói chuyện nghiêm chỉnh hơn : ý thức hệ quả nhiên đã chia rẽ hàng ngũ những người Việt Nam mong muốn độc lập, trong đó có ý thức hệ “quốc-cộng”. Tôi để hai chữ “quốc-cộng” trong ngoặc kép, vì hai lẽ : tuyệt đại đa số, nếu không nói là tất cả, những người Việt Nam cộng sản là những người quốc gia chủ nghĩa (nhiều khi quá khích), còn trong hàng ngũ những người tự nhận hay được xếp là “quốc gia”, những người phản quốc hơi bị nhiều. Khó ngược dòng thời gian để kết án ai là người bắt đầu chạy theo ý thức hệ, bỏ quên quyền lợi quốc gia. Người chống cộng thường đổ thừa cho “chủ nghĩa cộng sản ngoại lai”, quên rằng nếu chủ nghĩa cộng sản được du nhập vào Việt Nam sau năm 1920 (khi Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp, tháng 12.1920), thì chủ nghĩa chống cộng đã được du nhập vào nước ta vài năm trước đó (ai không tin, cứ tìm đọc tạp chí Nam Phongtừ năm 1917).

Xung đột ý thức hệ và nội chiến tồn tại khi ở hai bên chiến tuyến có sự tham gia của những bộ phận quan trọng của dân tộc hay giai cấp, đẳng cấp, với những chính kiến đối chọi nhau. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1945 ở Nam Bộ và từ cuối năm 1946 trên toàn quốc, không hề có yếu tố nội chiến (mặc dầu đã có những cuộc thanh trừng, tàn sát lẫn nhau giữa các phe phái). “Nam Kỳ tự trị” năm 1946, “Quốc gia Việt Nam” năm 1948 (với lá cờ vàng ba sọc đỏ) không đại diện cho ai khác hơn là thế lực thực dân và vài nhúm chính khách bị dư luận quốc dân khinh miệt. Vậy thì nội chiến ở Việt Nam bắt đầu bao giờ và như thế nào ? Sẽ cần những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc để làm sáng rõ vấn đề, nhưng ở đây và bây giờ, người viết bài này muốn khẳng định, với tất cả tinh thần trách nhiệm : từ chính sách mao-ít của Đảng cộng sản Việt Nam sau năm 1950.

Với chủ trương quy định thành phần giai cấp một cách thô bạo (có thể nói : lưu manh, ít nhất trong cách thực hiện) trong cuộc chỉnh huấn quân đội, chỉnh đảng, rồi cải cách ruộng đất, ĐCSVN đã đi ngược lại chính sách đoàn kết dân tộc chống thực dân đế quốc, xua đẩy sang hàng ngũ đối phương các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, tư sản, nhân sĩ, trí thức…

Chính đường lối “tả khuynh” theo kiểu Stalin và Mao thực hiện từ năm 1951 này đã “bưng mâm bầy cỗ” cho Mĩ một cơ sở xã hội rộng rãi mà họ chưa từng dám mơ ước : gia đình một ông quan chỉ được tiếng “chống Pháp” vì Pháp đã không chọn mà chọn người khác làm thượng thư bộ Lại, bỗng trở thành nguyên thủ một “quốc gia” với đầy đủ những thành phần xã hội thượng lưu và trung lưu mà phần lớn (nếu không nói là đa số) đều ngả về “phe kháng chiến” nhưng lại bị chính kháng chiến xua đẩy !

Trong những người, năm 1955-56 ở Sài Gòn, không thấy được điều này, may thay, có ông Ngô Đình Diệm. Với tầm nhìn bảo thủ của một ông quan xa lạ với thế kỉ XX (với cả xu hướng đổi mới của Giáo hội Công giáo dẫn tới Công đồng Vatican II), xa lạ với xã hội Việt Nam, ông tổng thống của “đệ nhất cộng hòa” đã tự cưa chân ngai vàng của mình, đàn áp những người kháng chiến, đàn áp cả những giáo hữu Nam Bộ thuộc xu hướng tự do…  Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam sở dĩ đã tập hợp được khá rộng rãi các thành phần xã hội ở miền Nam, liên kết được với phong trào Phật tử, khơi dậy được phong trào đô thị… có thể nói chính là nhờ chính sách ngu muội của các chính quyền Sài Gòn hơn là nhờ sự sáng suốt của Đảng cộng sản.

Nói như vậy có cường điệu lắm không ? Tôi chỉ xin nêu ra hai thí dụ để bảo vệ cho luận điểm này : một điều may thay không xảy ra, và một điều không may đã xảy ra. Điều không xảy ra : đầu năm 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã có chủ trương phát động “cải cách ruộng đất toàn diện và triệt để” (với ý đồ dễ đoán : phát huy sức mạnh của nông dân, chủ lực của cách mạng, chuẩn bị tổng tấn công năm 1968). Những cán bộ Ban nông thôn (xem hồi kí của ông Nguyễn Thành Thơ) và những người như ông Trần Bạch Đằng kiên quyết phản đối, Cụ Hồ gửi điện vào “can chú Thanh”, cuối cùng tướng Thanh đã từ bỏ ý nghĩ này. Một ý nghĩ rất “triệt để mao-ít”. Các nhà văn chính trị dự tưởng (politique fiction) có thể hình dung ra tình hình Việt Nam sau cuộc “cải cách ruộng đất triệt để và toàn diện” ở miền Nam năm 1967 với hơn nửa triệu quân Mĩ, Úc, New Zealand. Còn điều đã xảy ra (khi đất nước vắng bóng quân đội Mĩ) : xin mời độc giả tìm đọc những chương về “cải tạo công thương nghiệp” do ông Đỗ Mười trực tiếp tiến hành với sự ủy nhiệm của tổng bí thư Lê Duẩn, với những hệ quả như thế nào.

Chiến tranh ủy nhiệm, ý thức hệ ?

Chiến tranh Việt Nam bị lồng vào cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu hai khối tư bản và cộng sản, diễn ra trên bình diện thế giới từ năm 1947 trở đi, là điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. Việc tham chiến của Mĩ ở Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1975 không có mục đích thực dân, gắn liền với sự khai thác tài nguyên của Việt Nam, điều đó cũng rõ ràng không kém. Mỹ nhảy vào Việt Nam, kiên quyết biến miền Nam thành “tiền đồn thế giới tự do” đứng trên quan điểm đối đầu quốc tế, ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản Xô-Trung mà họ coi Hồ Chí Minh là “tay sai” (“agent” của cộng sản quốc tế). Khi Robert McNamara phát hiện ra sai lầm của mình thì Hoa Kì đã thất trận. Khi Kissinger (tháng 2 năm 1973) trông thấy bốn câu thơ “Nam quốc sơn hà…” của Lý Thường Kiệt ở Viện bảo tàng lịch sử Hà Nội, thì mấy tuần trước đó, ông ta đã phải ký tắt vào Hiệp định Paris, thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam” (ông ta cũng đủ dí dỏm để,  đứng trước câu thơ Lý Thường Kiệt, thốt ra lời bình : “Ô, đây là điều 1 Hiệp định Paris”).

Vậy thì, về phía Mỹ, dùng Quốc gia Việt Nam, Việt Nam cộng hòa, hay ồ ạt đưa đại quân sang Việt Nam (dù ông Diệm cưỡng lại) là để đánh Liên Xô, đánh Trung Quốc. Trong ý nghĩa này, chiến tranh Việt Nam là “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh ý thức hệ”.

Về phía đối phương, hiển nhiên, lực lượng chống Mĩ không thể đánh Mĩ nếu không có sự viện trợ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc. Và khi Việt Nam thắng Mĩ, người hưởng lợi là cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, nhất là Trung Quốc. Điều đó cũng rõ ràng.

Sai lầm, nếu có, là nghĩ rằng chiến tranh Việt Nam do xung đột quyền lợi giữa các cường quốc, người Việt Nam (cả hai phe) là những con bài được “ủy nhiệm” để phục vụ cho quyền lợi và chịu sự chỉ huy của nước ngoài.

Điều đó đúng cho một bên, thiết tưởng không cần phải chứng minh. Nhưng lầm to, nếu nghĩ nó đúng cho cả bên kia. Các công trình nghiên cứu (ít nhất của các tác giả quốc tế) cho thấy : khi Đảng CSVN quyết định tiến hành chủ trương “bảo vệ và xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, phải trầy trật lắm, họ mới tranh thủ được sự ủng hộ (hay đúng hơn, không phản đối) của Liên Xô, và cũng phải khôn khéo ghê gớm, họ mới làm chủ được nhịp độ, cường độ cuộc đấu tranh võ trang ở miền Nam (hơn một lần, nó không “ăn giơ” với tính toán của Mao Trạch Đông mà mục tiêu là hạ bệ Moskva và móc ngoặc với Mĩ). Ít người biết hơn, là : sau Hiệp định Paris, toàn bộ vũ khí sử dụng để đánh bại quân lực VNCH đều đã được tích lũy từ trước, Liên Xô không hề giúp thêm vũ khí thiết bị nào, còn tìm cách ngăn cản. Câu nói của Mao với Phạm Văn Đồng năm 1974 “chổi ngắn không thể quét xa” không chỉ là một lời nói suông).

Yếu tố quyết định

Giải phóng dân tộc, đương nhiên. Nội chiến, không thể chối cãi. Chiến tranh ủy nhiệm, hiển nhiên. Nhưng ba yếu tố ấy, cái nào là quyết định ? Cuộc chiến tranh 1945-75, tính chất cơ bản của nó là gì ?

Thật ra, nếu đồng ý với nhau về cả ba yếu tố, với nội dung của từng yếu tố như kể trên, thì cuộc tranh luận xem yếu tố nào quyết định, mỗi yếu tố đã tác động lên hai yếu tố kia như thế nào, cũng rất quan trọng, nhưng không ngăn cản sự thông hiểu nhau (trong sự bất đồng).

Thành thực mà nói, người viết bài muốn đưa ra một tiêu chí để xem xét sự tương tác giữa ba yếu tố. Đó là : nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975, đâu là nơi quyết định các lựa chọn chiến lược, các biện phát tác chiến, các cuộc tổng tiến công ?

Xét từ góc độ ấy, cuộc chiến tranh đã mở đầu từ những quyết định ở Paris và Hà Nội. Khi cuộc chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, quyết định đã được lấy từ Moskva, Bắc Kinh, Việt Bắc một bên, và từ Washington DC, London, Paris, thể hiện ở Genève ngày 21.7.1954. Còn toàn bộ cuộc chiến tranh lần thứ nhì, từ năm 1955 đến đêm 29.4.1975, hai trung tâm quyết định, và chỉ có hai trung tâm đó thôi, là Hà Nội và Washington DC.

Hiệp định Paris được ký kết tại đại sảnh đường Khách sạn Majestic sáng ngày 27 tháng giêng 1973 sau gần năm năm thương lượng, chủ yếu là giữa phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Hoa Kỳ. Hơn một tháng sau, ngày 2 tháng 3, cũng tại phòng hội nghị đó, diễn ra Hội nghị quốc tế về Việt Nam, với ông Tổng thư ký LHQ Kurt Walheim, thêm bốn tứ cường (nghiã là đầy đủ ngũ cường đã quyết định ở Geneve năm 1954) và bốn nước thành viên của Ủy ban quốc tế giám sát. Hội nghị long trọng chỉ họp một ngày là xong, mục đích duy nhất là để tổng thư ký LHQ và 12 ngoại trưởng ký vào bản “Định ước quốc tế”, tức là đơn thuần “chứng giám” sự thỏa thuận Viêt-Mĩ. Thời Geneve, cái “thế chiến quốc” ở Genève năm 1954 đã qua rồi.

Từ Hiệp định Paris đến kết cuộc

Cần nói gì thêm sau ngày 27.1.1973 ? Trong khuôn khổ bài viết này, có lẽ chỉ cần nêu hai điểm :

Hiệp định không thể có số phận nào khác hơn là số phận hai năm sau của nó, nghĩa là mục tiêu của nó chỉ có thể thực hiện thông qua một phương thức không do nó quy định. Thật vậy, Mĩ kí kết Hiệp định chỉ cốt để có thể rút hết quân và đón hết tù binh Mĩ một cách an toàn. Một giải pháp chính trị (hai bên miền Nam thương lượng, thành lập chính phủ ba thành phần) không thể đạt được khi mà đối với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, đó là bản án tử hình chính trị. Không những thế, trong việc này, Mĩ và Thiệu thống nhất quyền lợi với nhau : một chính phủ liên hiệp, một cuộc bầu cử tự do, sự tham gia của cộng sản trong một chính quyền dân cử là một điều tối kị, ô nhục hơn cả một chiến thắng quân sự của cộng sản. Không đời nào nước Mĩ của Nixon-Kissinger chấp nhận một chính quyền “cộng sản” thành lập qua bầu cử. Không đời nào có thể để cho một Salvador Allende xuất hiện ở Dinh Độc Lập. Không phải ngẫu nhiên mà chưa đầy 8 tháng sau, Mỹ đã lật đổ tổng thống Chile và đẩy đất nước này vào một thảm họa kéo dài hơn hai thập niên. Cùng lắm, Mỹ có thể ngậm quả bồ hòn là sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thông qua thất bại quân sự, sau một “khoảng thời gian vừa phải” (a decent interval). Hai năm, trong ngôn ngữ cynic của Kissinger, là một thời gian “decent”.

Người ta có thể phản biện : nếu chính quyền ông Thiệu chịu thi hành Hiệp định chăng nữa, nếu một chính quyền ba thành phần được thành lập đi nữa, thì chẳng chóng thì chầy, cộng sản cũng làm một cú đảo chính như ở Tiệp Khắc năm 1947 chứ sao ? Bằng chứng là, sau ngày 30.4, cứ xem cộng sản đối xử ra sao với thành phần ba, cứ xem chính sách “cải tạo” thế nào ! Lý luận này không phải không có cơ sở (ông Đỗ Mười chắc không phản đối), nhưng hơi bị yếu, ở một điểm : cái có thể sẽ xảy ra không bao giờ biện minh cho một điều đã xảy ra. Vả lại, một quá trình diễn ra trong hòa bình, trong tự do ngôn luận (tương đối) là một trường học cho mọi lực lượng trong một xã hội chưa bao giờ có dân chủ thực sự.

Vả lại, đây là một tranh cãi vô bổ. Có ích hơn, đối với mọi người Việt Nam, bất cứ ở đâu, đang gần trời hay gần đất, là : cùng nhau tìm hiểu sự thật lịch sử, nhận thức những yếu tố khách quan đã chi phối lịch sử dân tộc, ghi nhận khác biệt trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau, để tìm ra mẫu số chung. Cho một nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, dân chủ và tự do.

Trong cuộc tìm hiểu ấy, Bên Thắng Cuộc là một đóng góp quan trọng và dũng cảm của nhà báo Huy Đức.

Berlin, 8.2.2013

Nguyễn Ngọc Giao

Nguồn: Diễn đàn

Ghi chú: GS Nguyễn Ngọc Giao, từng là Phó Tổng thư ký Hội người Việt Nam tại Pháp, tham gia phiên dịch cho Phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Paris về Việt Nam.

TẬP VIẾT DỰ THẢO HIẾN PHÁP

HIẾN PHÁP

NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

(Phát triển từ bài tập về Tập viết Hiến pháp)

 

LỜI NÓI ĐẦU

Trải qua nhiều hy sinh, mất mát xương máu, tài lực, vật lực của nhiều thế hệ, đất nước Việt Nam mới có được thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, theo đúng nguyện vọng của đa số người Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì tự do và độc lập của dân tộc, vì một xã hội công bằng, dân chủ và tôn trọng pháp quyền, vì mục tiêu hạnh phúc và tự do của các thế hệ hiện tại và tương lai, chúng tôi, nhân dân Việt Nam, thông qua các đại diện của mình, xây dựng bản Hiến pháp này.

Đã từng thực thi trên đất nước Việt Nam nhiều hình thức chính thể, nhiều chế độ chính trị khác nhau, nay, đa số nhân dân Việt Nam nhận thấy rằng chỉ chọn hình thức chính thể “Việt Nam dân chủ cộng hòa” là phù hợp nhất.

Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bảo đảm của dân, do dân, vì dân. Trách nhiệm cao cả của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân, của người Việt Nam trong và ngoài nước; bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, tôn giáo, các dân  tộc anh em và các nhân tố khác trong xã hội; bảo đảm kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ và sự bình đẳng của các thành phần trong xã hội trước pháp luật.

Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

– Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo và quan điểm chính trị.

– Đảm bảo các quyền con người mà nhà nước Việt Nam đã ghi nhận, cam kết.

– Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

– Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật.

– Đảm bảo chính sách đối ngoại tôn trọng hòa bình và bảo đảm sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

CHƯƠNG I. QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Chính thể

Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.

Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, quan điểm chính trị.

Điều 2. Chủ quyền

Việt Nam là đất nước có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Chủ quyền quốc gia Việt Nam thuộc về nhân dân. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tất cả các quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân.

Điều 3. Quản lý xã hội bằng pháp luật

Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm tất cả các quan hệ xã hội cơ bản và các quy định trong bản hiến pháp này phải được cụ thể hóa và thực thi bằng pháp luật. Mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 4. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam

1- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2- Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

3- Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, có quyền phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.

4- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hội nhập vào sự phát triển chung của đất nước.

Điều 5. Công dân và người Việt Nam ở nước ngoài

1- Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc tịch Việt Nam được luật quy định.

2- Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam, giao nộp cho nhà nước khác.

3- Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài.

4- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

5- Người gốc Việt Nam có quốc tịch nước khác hoặc chưa có quốc tịch nước nào có quyền có quốc tịch Việt Nam.

Điều 6. Tổ chức chính trị

Các tổ chức chính trị được thành lập và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật. Quan điểm chính trị khác nhau được tôn trọng.

Điều 7. Tôn trọng hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân

1- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nỗ lực duy trì hòa bình quốc tế và từ bỏ chiến tranh xâm lược.

2- Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh quốc gia là nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể nhân dân ViệtNam.

3- Các lực lượng vũ trang được trao sứ mệnh thiêng liêng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.

4- Các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. 

Điều 8. Tính chất dân sự của lực lượng cảnh sát

Lực lượng cảnh sát có sứ mệnh thực thi luật pháp và giữ gìn trật tự. Cảnh sát thuộc lĩnh vực dân sự, không thuộc về các lực lượng vũ trang.

Điều 9. Trách nhiệm của công chức

1- Công chức là công bộc của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân, cho dù có sự thay đổi chính phủ hay một định chế chính trị khác.

2- Địa vị và tính trung lập chính trị của công chức được đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Điều 10. Đa dạng thành phần kinh tế

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thực hiện chế độ kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Nhà nước cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền trong các hoạt động kinh tế.

Điều 11. Đa dạng sở hữu

Những vùng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời không thuộc tài sản của các chủ sở hữu khác theo quy định pháp luật thì mặc nhiên được công nhận tài sản quốc gia. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thực hiện chế độ đa sở hữu. Sở hữu tư nhân về đất đai được tôn trọng, bảo vệ. Không được chiếm hữu tài sản của người khác bất hợp pháp. Trong trường hợp phục vụ quốc phòng, anh ninh và lợi ích mang tầm quốc gia thì nhà nước được quyền trưng dụng tài sản, đất đai của chủ sở hữu khác nhưng trên cơ sở đồng ý của chủ sở hữu đó hoặc trường hợp không thống nhất được thì lập hội đồng quyết định đền bù cho chủ sở hữu tài sản giá trị tương đương.

Điều 12. Các điều ước quốc tế

1- Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước; tích cực ủng hộ và góp phần cùng các quốc gia trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

2- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận, kế thừa và tôn trọng các điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trước đây ký kết và ban hành không trái với các hiến pháp tương ứng và các quy tắc chung được luật pháp quốc tế công nhận vào thời điểm đó.

3- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố nào mà các chính quyền Việt Nam trước đây đã ký kết hoặc đưa ra một cách bí mật, không đúng thẩm quyền hoặc không đúng theo các thủ tục pháp luật vào thời điểm đó.

4- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều ước, thỏa thuận hay tuyên bố do bất cứ đảng phái chính trị, tổ chức phi nhà nước hay cá nhân nào đã ký kết hoặc đưa ra, một cách bí mật hay công khai, liên quan đến chủ quyền hay lãnh thổ Việt Nam.

Điều 13. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô

1- Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

2- Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

3- Quốc ca nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhạc và lời của bài “Tiến quân ca”.

4- Ngày Quốc khánh là Ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945.

5- Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hà Nội.

CHƯƠNG II. QUYỀN CON NGƯỜI,

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Điều 14. Nguyên tắc tôn trọng các quyền con người

1- Ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các quyền con người, được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948) và các điều ước quốc tế về quyền con người khác mà Việt Nam là thành viên, được tôn trọng và bảo vệ.

2- Các cơ quan nhà nước, công chức và viên chức có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Điều 15. Nguyên tắc bảo vệ quyền công dân

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá, phúc lợi. Tất cả công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình mà không bị bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa vào giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân.

Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những công dân thuộc dân tộc thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để cùng phát triển.

Điều 16. Nghĩa vụ chung của công dân Việt Nam

1- Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

2- Tôn trọng Hiến pháp

3- Tuân thủ pháp luật.

4- Tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhà nước, của bản thân và của các tổ chức và cá nhân khác.

5- Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

6- Mọi công dân có nghĩa vụ nộp thuế theo các điều kiện luật định.

7- Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.

Điều 17. Các quyền cơ bản của công dân

1- Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình ôn hòa để bày tỏ chính kiến, đề đạt ý kiến, nguyện vọng. Pháp luật quy định cụ thể những quyền này.

2- Tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do kết hôn khi đủ tuổi theo quy định của pháp luật. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

3- Tự do xuất bản.

4- Tự do tham gia, tổ chức lập hội, nghiệp đoàn, tham gia hội họp.

5- Tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo.

6- Tự do bầu cử và ứng cử.

7- Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.

8- Tự do sáng tạo, bảo vệ và hưởng thụ văn hóa không trái lợi ích quốc gia và thuần phong, mĩ tục của các dân tộc Việt Nam. Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.

9- Quyền được học tập tùy theo năng lực, điều kiện. Bậc tiểu học là giáo dục bắt buộc. Học sinh và người trưởng thành có nghĩa vụ chấp hành. Miễn học phí tiểu học để trẻ em được bảo đảm quyền học tập. Công dân được quyền mở trường tư thục và phải dạy theo chuẩn giáo dục quốc gia, do Chính phủ quy định.

10- Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật tuyệt đối. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.

11- Cuộc sống riêng tư, gia đình, danh dự và uy tín cá nhân của mọi người được tôn trọng.

12- Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

13- Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.

14- Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

15- Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ. Những người công dân mất sức lao động được giúp đỡ. Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.

16- Công dân không bị bắt và giam cầm trên lãnh thổ Việt Nam khi chưa có bằng chứng cụ thể về hành vi phạm tội và chưa có phê chuẩn của cơ quan tư pháp có thẩm quyền. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Không ai bị xem là tội phạm khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án phán xét người đó có tội.

17Quyền tư hữu tài sản, đất đai của công dân Việt Nam được bảo đảm.

18- Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Quyền làm việc và có việc làm được bảo đảm.

19- Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội.

20- Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ. Mọi hình thức nô lệ và buôn bán người đều bị cấm.

21- Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.

22- Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

23Địa vị, cuộc sống của người nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết.

CHƯƠNG III. NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC

Điều 18: Nghĩa vụ chung của nhà nước

Nhà nước ngoài có các quyền và nghĩa vụ chung trong lập pháp, hành pháp và tư pháp thì có các nghĩa vụ cơ bản sau:

1- Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải tôn trọng, tuân thủ nghiêm chỉnh hiến pháp và pháp luật.

2- Mọi hoạt động đối nội và đối ngoại của các cơ quan nhà nước bảo đảm quyền lợi quốc gia, dân tộc, quyền lợi của nhân dân trên hết. Hành vi phản quốc trong quan hệ đối ngoại phải được nghiêm trị.

3- Đảm bảo sự thống nhất, ổn định và toàn vẹn lãnh thổ.

4- Tôn trọng, thực thi có hiệu quả pháp lý cao nhất các quyền con người; quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định tại Chương II. Hiến pháp này.

5- Đảm bảo ban hành và thực thi pháp luật đầy đủ đối với cuộc sống ổn định của công dân, hoạt động của các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước, các hội, các tổ chức tôn giáo và các tổ chức, cá nhân có yếu tố nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

6- Đảm bảo chính sách đa sở hữu đối với đất đai và các tài sản khác của tất cả các cá nhân, tổ chức trong xã hội, nhất là sở hữu tư nhân về đất đai. Nhà nước không được xâm phạm quyền sở hữu tư nhân về tài sản, đất đai trái pháp luật. Cá nhân, tổ chức nào vi phạm quyền sở hữu tài sản của các thành phần trái luật thì bị xử lý theo pháp luật và phải bồi thường.

7-  Bảo đảm quyền của nhân dân trong việc phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.

8. Các thành phần kinh tế được nhà nước bảo đảm quyền hoạt động bình đẳng trước pháp luật, được cạnh tranh lành mạnh, được chống độc quyền và không bị quốc hữu hóa về tài sản với bất kỳ lý do nào mà không có sự thỏa thuận, đồng ý của các bên.

9- Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải là công bộc của nhân dân. Nhà nước bảo đảm tính trung lập, không phân biệt quan điểm chính trị, tư tưởng, tôn giáo trong mọi hoạt động của công chức.

CHƯƠNG IV. CHẾ ĐỘ BẦU CỬ

Điều 19. Nguyên tắc bầu cử

Chế độ bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, tự do, trực tiếp và kín.

Điều thứ 20. Quyền bầu cử, ứng cử

Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất năng lực hành vi dân sự và những người mất quyền công dân.

Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít nhất là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.

Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.

Điều 21. Tổ chức bầu cử

1- Ủy ban bầu cử quốc gia hoạt động chuyên nghiệp, chịu trách nhiệm về cách thức tổ chức bầu cử, tuyển cử Quốc hội, Chủ tịch nước và giám sát bầu cử, tuyển cử các chức danh của chính quyền địa phương. Ngân sách hoạt động của Ủy ban bầu cử quốc gia và cách thức bầu cử sẽ do luật định.

2- Các ứng cử viên do Mặt trận tổ quốc Việt Nam hiệp thương giới thiệu.

3- Thời gian, thời hạn tiến hành bầu cử đại biểu quốc hội và bầu chủ tịch nước do luật định.

Điều 22. Quyền và nghĩa vụ của nhân dân trong bầu cử

Nhân dân có quyền và nghĩa vụ trong việc bầu cử và bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra.

CHƯƠNG V. LẬP PHÁP

Điều 23. Quy định chung về Quốc hội

1- Quốc hội là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Quyền lập pháp được nhân dân ủy quyền cho Quốc hội.

2- Ngoài chức năng lập pháp, Quốc hội còn giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc; đặt ra pháp luật; biểu quyết ngân sách; phê chuẩn việc bổ nhiệm lãnh đạo các cơ quan hành pháp, trừ Chủ tịch nước do dân trực tiếp bầu; bổ nhiệm các thẩm phán, lãnh đạo các cơ quan hiến định độc lập theo quy định của Hiến pháp và luật;  biểu quyết việc tín nhiệm các chức danh do chính Quốc hội phê chuẩn; chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.

3- Quốc hội do công dân Việt Nam bầu ra. Nhiệm kỳ của Quốc hội là năm năm.

Điều 24. Đại biểu Quốc hội

1.   Đại biểu Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm và có thể được bầu lại.

2.   Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được bầu 1 đại biểu quốc hội; đồng thời mỗi đơn vị bầu cử được bầu 1 (một) đại biểu Quốc hội.

3.   Đơn vị bầu cử Đại biểu Quốc hội gồm các đơn vị hành chính cơ sở (cấp xã) nằm trong một vùng sao cho các đơn vị có dân số xấp xỉ ngang nhau.

4.   Số đơn vị bầu cử của một đơn vị hành chính cấp tỉnh được tính bằng số nguyên làm tròn của con số được tính bằng dân số của đơn vị cấp tỉnh đó (theo tổng điều tra dân số gần nhất) nhân với 250 rồi chia cho dân số toàn quốc. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh có ít nhất một đơn vị bầu cử.

5.   Mọi công dân đủ 25 tuổi trước ngày bầu cử có thể là ứng cử viên Đại biểu quốc hội tại một đơn vị bầu cử nếu:(a) có được chữ ký của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được một đảng chính trị đề cử.

6.   Đại biểu Quốc hội đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử của mình mà cho người dân cả nước. 

7. Số Đại biểu Quốc hội của những đô thị lớn sẽ do luật định và những địa phương có quốc dân thiểu số chiếm trên 20% dân số phải có một đại biểu là người dân tộc thiểu số đó.

8- Nếu chưa được Quốc hội đồng ý hay trong lúc Quốc hội không họp mà chưa được Ủy Ban thường vụ quốc hội đồng ý thì không được bắt giam và xét xử những Đại biểu quốc hội.

9- Đại biểu quốc hội không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Quốc hội.

9- Trong trường hợp phạm pháp quả tang, Cơ quan tư pháp có thể bắt giam Đại biểu quốc hội ngay nhưng chậm nhất là 24 giờ phải thông tri cho Ủy Ban thường vụ Quốc hội. Ủy Ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội sẽ quyết định và Cơ quan tố tụng phải tôn trọng quyết định ấy.

10- Khi một Đại biểu quốc hội mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả tư cách Đại biểu quốc hội.

 11- Quốc hội phải xét vấn đề bãi miễn một Đại biểu quốc hội khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra Đại biểu quốc hội đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ chức.

10-   Việc bầu cử toàn bộ Đại biểu quốc hội lần đầu tiên theo Hiến Pháp này được tiến hành trong vòng 100 ngày kể từ ngày bản Hiến pháp có hiệu lực.

11-   Đại biểu quốc hội hết nhiệm kỳ vào ngày tính đúng 60 tháng.

12- Trong vòng 100 ngày trước khi các Đại biểu quốc hội hết nhiệm kỳ, phải tổ chức bầu cử các Đại biểu quốc hội mới cho nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu đơn vị bầu cử không hội đủ số người đắc cử theo quy định thì phải tổ chức bầu lại từ các ứng viên thất cử của đợt bầu trước đó trong vòng 15 ngày sau khi cuộc bầu cử trước kết thúc. Việc bầu cử lại này được tiến hành cho đến khi chọn đủ số người đắc cử theo quy định và trong mọi trường hợp phải kết thúc trước ngày các Đại biểu quốc hội đương nhiệm hết nhiệm kỳ 15 ngày.

13-   Nếu khuyết Đại biểu quốc hội vì bất cứ lý do gì, thì (a) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại dưới 1 năm sẽ không có bầu cử bổ sung; hoặc (b) nếu thời gian nhiệm kỳ còn lại bằng hay trên 1 năm phải tổ chức bầu bổ sung tại đơn vị bầu cử đó cho đủ số đại biểu bị khuyết trong vòng 60 ngày kể từ khi Quốc hội xác nhận sự khuyết. Nhiệm kỳ của người được bầu bổ sung sẽ chấm dứt cùng với nhiệm kỳ của các Nghị sĩ đương nhiệm.

14-   Thủ tục ứng cử, tranh cử, bầu cử được quy định chi tiết trong luật bầu cử.

Điều 25.  Quy định riêng của Đại biểu Quốc hội

1.   Trừ Phó chủ tịch nước, thủ tướng, phó thủ tướng, các bộ trưởng và thứ trưởng, các Đại biểu quốc hội đương nhiệm không được đồng thời giữ bất kỳ chức vụ nào khác tại bất kỳ cơ quan, tổ chức công hay tư, trong các lực lượng vũ trang hay cảnh sát. Nếu đã giữ các chức vụ như vậy trước khi được bầu làm Đại biểu quốc hội thì phải chính thức từ nhiệm các chức vụ đó trước khi thực hiện nhiệm vụ Đại biểu quốc hội và việc từ chối từ nhiệm sẽ được coi là từ bỏ nhiệm vụ Đại biểu quốc hội.

2.   Các Đại biểu quốc hội được trả lương từ Ngân khố quốc gia.

3.   Các Đại biểu quốc hội, trước khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, sẽ phải tuyên thệ trước mỗi quốc hội: “ Tôi long trọng tuyên thệ thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách mẫn cán và tận tâm, để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích của nhân dân và đất nước; làm mọi việc trong thẩm quyền của mình vì sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Việc từ chối tuyên thệ sẽ được coi là từ bỏ nhiệm vụ Đại biểu quốc hội.

4.   Đại biểu quốc hội sẽ không phải chịu trách nhiệm bên ngoài quốc hội về ý kiến chính thức đã nêu hoặc về việc bỏ phiếu của mình tại quốc hội.

5.   Không Đại biểu quốc hội nào có thể bị bắt hoặc giam giữ mà không được sự đồng ý của đa số 2/3 các Đại biểu quốc hội của quốc hội, ngoại trừ trường hợp phạm tội quả tang.

Điều 26. Tính liêm chính của Đại biểu quốc hội

1.   Đại biểu quốc hội có nghĩa vụ duy trì chuẩn mực cao về liêm chính, phải ưu tiên lợi ích quốc gia, lợi ích chung của nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ của mình phù hợp với lương tâm.

2.   Đại biểu quốc hội không được lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình, không được đòi hỏi các lợi ích về tài sản hay địa vị, hoặc giúp người khác thu lợi, thông qua thông đồng hay sự sắp xếp của nhà nước, các tổ chức công quyền hay các ngành công nghiệp.

3.   Đại biểu quốc hội phải khai báo tài sản của mình theo luật định.

4.   Đại biểu quốc hội, vợ hay chồng của Đại biểu quốc hội, cũng như các doanh nghiệp do họ sở hữu hay chiếm quyền chi phối, không thể tham dự các cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền và các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hay chiếm quyền chi phối. 

Điều 27. Tổ chức hoạt động của Quốc hội

1.   Mỗi Đại biểu quốc hội có một lá phiếu khi biểu quyết tại quốc hội.

2.   Mọi quyết định của Đại biểu quốc hội được coi là được thông qua nếu được đa tương đối (trên 50%) số phiếu, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.

3.   Quốc hội bầu ra một Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch và Ủy ban thu7òng vụ Quốc hội. Ủy Ban thường vụ quốc hội bao gồm một Chủ tịch và hai Phó Chủ tịch, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết. Chủ tịch và hai Phó Chủ tịch kiêm chức Trưởng và Phó trưởng Ban thường vụ.

4.   Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch quốc hội bị khuyết, thì một Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi quốc hội bầu ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.

5.   Quốc hội quyết định về tổ chức nội bộ của mình.

Điều 28. Kỳ họp quốc hội

1- Quốc hội mỗi năm họp hai lần do Ủy Ban thường vụ Quốc hội triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch.

2- Ủy Ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét cần.

3- Ủy Ban thường vụ Quốc hội phải triệu tập Đại biểu quốc hội nếu một phần ba tổng số Đại biểu quốc hội hoặc người đứng đầu Chính phủ yêu cầu.

4- Quốc hội họp công khai, công chúng được vào nghe.

5- Báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của quốc hội.

6- Trong những trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết nghị họp kín.

Điều 29. Điều kiện biểu quyết tại quốc hội

1- Phải có quá nửa tổng số Đại biểu quốc hội tới họp, các nội dung kỳ họp quốc hội mới được biểu quyết.

2- Quốc hội quyết nghị theo quá nửa số Đại biểu quốc hội có mặt.

3- Trường hợp tuyên chiến thì phải có hai phần ba số Đại biểu quốc hội có mặt bỏ phiếu thuận.

4- Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số Đại biểu quốc hội đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.

Điều 30. Quyền trình dự án luật

1.   Các Đại biểu quốc hội, cơ quan hành pháp, tư pháp có thể đệ trình dự án luật.

2.   Nếu có ít nhất 30.000 công dân ký đồng ý thì một dự án luật cũng có quyền trình Quốc hội. Thủ tục về việc này do luật quy định.

3.   Dự án luật phải được nộp cho Văn phòng Quốc hội.

4.   Người, hay nhóm công dân bảo trợ dự án luật, khi đệ trình dự án luật cho Quốc hội, có trách nhiệm giải trình rõ các hệ quả về tài chính của việc thực thi dự án luật.

5.   Người, nhóm người hay cơ quan trình dự án luật có thể rút lại dự án luật trong quá trình thẩm định và xem xét thông qua. 

Điều 31. Thẩm định, thảo luận, thông qua dự luật

1.   Dự án luật, dự thảo luật đã được đệ trình lên Quốc hội được gọi chung là dự luật. Dự luật phải trải qua các khâu thẩm định theo quy định của luật.

2.   Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận, xem xét dự luật và biểu quyết thông qua với đa số phiếu hiện diện hay bác bỏ. Trường hợp bác bỏ hay yêu cầu chỉnh sửa thì Ủy ban thường vụ Quốc hội phải có nghị quyết nêu rõ trước khi trả lại cho cá nhân, tổ chức trình dự luật. Nếu dự luật bị Ủy ban thường vụ Quốc hội bác bỏ nhưng được 1/3 số đại biểu quốc hội tán thành thì bắt buộc Ủy ban thường vụ quốc hội phải trình cho quốc hội trong kỳ họp gần nhất để biểu quyết. Việc vận động để có 1/3 số đại biểu quốc hội đồng ý và các cuộc vận động hành lang xây dựng luật khác được công nhận nhưng phải do luật quy định.

3.   Nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua dự luật thì dự luật sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp gần nhất. Nếu được đa số phiếu của Đại biểu quốc hội hiện diện thông qua thì dự luật đã được Quốc hội ưng chuẩn.

Điều 32.  Dự luật thành luật và công bố luật

1.   Dự luật đã được Quốc hội ưng chuẩn phải được gửi cho Chủ tịch nước trong vòng 7 ngày làm việc.

2.   Sau khi nhận được dự luật đã được Quốc hội ưng chuẩn, Chủ tịch nước có thể chuyển dự luật cho Tòa Bảo Hiến để xét xem có phù hợp với Hiến pháp hay không. Nếu Tòa án Bảo Hiến xác định dự luật phù hợp với Hiến pháp thì dự luật trở thành luật. Trong trường hợp dự luật có các điều khoản cụ thể được Tòa Bảo Hiến cho là không hợp hiến và Tòa Bảo Hiến không xác định các điều khoản đó là không thể tách rời toàn bộ dự luật, thì Chủ tịch nước có thể loại bỏ các điều khoản được cho là vi hiến đó sau khi đã tham vấn ý kiến của Chủ tịch Quốc hội và dự luật trở thành luật với sự loại bỏ đó.

3- Những đạo luật đã được Quốc hội ưng chuẩn, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban lệnh công bố chậm nhất là 10 ngày làm việc sau khi nhận được văn bản luật. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu quốc hội thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được quốc hội ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố. Trường hợp đạo luật đã được ưng chuẩn mà Chủ tịch nước không chịu ký lệnh công bố sau 10 ngày làm việc tiếp theo thì Chủ tịch Quốc hội ký công bố.

Điều 33. Quốc hội giải tán, hết nhiệm kỳ

1- Khi có hai phần ba tổng số Đại biểu Quốc hội đồng ý, Quốc hội có thể tự giải tán. Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội thay mặt Quốc hội tuyên bố sự tự giải tán ấy.

2- Khi Quốc hội đã hết hạn hoặc chưa hết hạn mà tự giải tán thì Ủy ban thường vụ Quốc hội giữ chức quyền cho đến khi bầu lại Quốc hội mới.

3- Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Ủy ban thường vụ Quốc hội tuyên bố cuộc bầu cử mới và giao cho Ủy ban bầu cử Quốc gia tổ chức. Cuộc bầu cử mới phải hòan thành trong hai tháng trước ngày Quốc hội hết nhiệm kỳ.

4- Khi Quốc hội tự giải tán, Ủy ban thường vụ Quốc hội tuyên bố ngay cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới hoàn thành trong hai tháng sau ngày Quốc hội tự giải tán.

5- Chậm nhất là một tháng sau cuộc bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội phải triệu tập cuộc họp Quốc hội mới.

6- Trong khi có chiến tranh mà Quốc hội hết nhiệm kỳ thì Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền gia hạn thêm một thời gian nhưng không quá sáu tháng phải bầu Quốc hội mới.

Điều 34. Thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội

Khi Quốc hội không họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền:

1- Biểu quyết những dự án luật của Chính phủ. Những dự luật đó phải đem trình Quốc hội vào phiên họp gần nhất để Quốc hội ưng chuẩn hoặc phủ quyết

2- Triệu tập họp Quốc hội.

3- Kiểm soát và phê bình Chính phủ.

4- Phải có quá nửa tổng số nhân viên bỏ phiếu thuận, những nghị quyết của Ban thường vụ mới có giá trị.

5- Khi Quốc hội không họp được, Ủy ban thường vụ Quốc hội cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.

6- Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội báo cáo công việc, vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ủy ban thường vụ Quốc hội có thể nêu ra, nếu có một phần ba tổng số Đại biểu Quốc hội yêu cầu. Toàn bộ Ủy ban thường vụ Quốc hội phải từ chức nếu không được tín nhiệm. Thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội cũ có thể được bầu lại.

Điều 35. Kiểm toán thu chi ngân sách

1- Các loại và mức thuế được xác định bằng luật.

2- Mọi kế hoạch của Cơ quan Hành pháp về phát hành trái phiếu quốc gia và ký kết hợp đồng mà có thể phát sinh nghĩa vụ tài chính ngoài ngân sách của Nhà nước đều phải được Quốc hội phê chuẩn. 

3- Báo cáo tài chính cuối cùng về thu chi ngân sách quốc gia sẽ được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán hàng năm và trình cho Quốc hội. 

Điều 36. Chất vấn

1.   Đại biểu quốc hội có quyền chất vấn các Bộ trưởng bằng văn bản hoặc bằng các câu hỏi trực tiếp tại các phiên họp của Quốc hội.

2.   Chất vấn bằng văn bản phải được trả lời bằng văn bản trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được chất vấn.

3.   Các Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời các câu hỏi được nêu ra trong mỗi phiên họp của Quốc hội. 

Điều 37. Điều trần

1.   Để phục vụ cho hoạt động lập pháp, các ủy ban của quốc hội có thể tổ chức các cuộc điều trần để nghe những người có liên quan giải thích, làm rõ những vấn đề nhất định nhằm tạo cơ sở cho các quyết định lập pháp và giám sát của Quốc hội.

2.   Những người được mời điều trần trước các ủy ban của quốc hội có thể là các đại biểu quốc hội, các quan chức chính phủ, lãnh đạo các tổ chức dân sự, công đoàn, các doanh nhân, chuyên gia, học giả, nhà khoa học…

3.   Để chọn ra các quan chức có chất lượng, tất cả các ứng viên tiềm năng vào các chức Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch hay lãnh đạo của các cơ quan hiến định đều phải điều trần trước khi được bổ nhiệm và phê chuẩn.

4.   Thủ tục mời và tiến hành điều trần do luật định.

5.   Biên bản các cuộc điều trần được công bố công khai, trừ các cuộc điều trần liên quan đến an ninh quốc gia, và được lưu trữ theo luật định. 

Điều 38. Trưng cầu dân ý toàn quốc

1.   Cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có thể được tổ chức về những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhân dân và quốc gia.

2.   Quốc hội có thể quyết định tổ chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Chủ tịch nước với sự chấp thuận của quốc hội có quyền quyết định tổ chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Khi có yêu cầu của trên 500 ngàn cử tri thì phải tổ chức trưng cầu dân ý.

3.   Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có tính bắt buộc nếu có hơn ½ số người có quyền bầu cử tham gia cuộc trưng cầu dân ý.

4.   Các nguyên tắc và thủ tục tổ chức cuộc trưng cầu dân ý do luật định. 

Điều 39.  Giám sát, điều tra và bãi nhiệm

1.   Quốc hội có thể giám sát công việc của nhà nước hoặc điều tra những vấn đề cụ thể của công vụ nhà nước, có quyền yêu cầu đệ trình các tài liệu trực tiếp liên quan đến các vấn đề đó, yêu cầu nhân chứng cung cấp lời khai hoặc báo cáo.

2.   Dựa trên kết quả giám sát, điều tra, chất vấn và điều trần, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Bộ trưởng.

3.   Các thủ tục và các vấn đề liên quan đến giám sát và điều tra hành chính nhà nước được luật quy định. 

Điều 40. Phế truất Chủ tịch nước

1.   Quyết định khởi tố Chủ tịch nước về việc vi phạm Hiến pháp hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội ký, phải được Quốc hội thông qua bằng nghị quyết với ít nhất 2/3 tổng số thành viên Quốc hội tán thành, trên cơ sở đề nghị của ít nhất 60 Đại biểu quốc hội.

2.   Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc. Quyết định khởi tố chủ tịch nước được xét xử bởi tòa án đặc biệt do Quốc hội thành lập. Thành phần của tòa án này có thẩm phán Tòa Bảo Hiến và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và thành phần khác do Quốc hội quyết định trên cơ sở đề xuất của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3.   Từ ngày có quyết định khởi tố, Chủ tịch nước bị tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ. Phó chủ tịch nước hoặc Chủ tịch Quốc hội tạm thời đảm nhiệm chức vụ quyền chủ tịch nước nhưng phải có sự thông qua của Quốc hội hoặc  Ủy ban thường vụ quốc hội khi quốc hội không họp. Trường hợp không thông qua được thì Ủy ban thường vụ quốc hội giới thiệu và thông qua trong thời gian bảy ngày một nhân sự khác. Nếu tòa án đặc biệt phán quyết Chủ tịch nước vô tội thì việc tạm đình chỉ nhiệm vụ Chủ tịch nước chấm dứt. Nếu tòa phán quyết Chủ tịch nước có tội thì Chủ tịch nước bị bị phế truất. Ủy ban bầu cử quốc gia phải tổ chức bầu cử lại chức danh Chủ tịch nước.

Điều 41. Phê chuẩn điều ước quốc tế

1-  Quốc hội có quyền đồng ý ký kết và phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến an ninh; các điều ước quốc tế liên quan đến các tổ chức quốc tế quan trọng; các điều ước hữu nghị, thương mại và hàng hải; các điều ước quốc tế liên quan đến bất kỳ hạn chế nào về chủ quyền; các điều ước hòa bình; các điều ước quốc tế phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng đối với Nhà nước hoặc nhân dân; và các điều ước quốc tế liên quan đến lập pháp.

2-   Đại diện có thẩm quyền và được ủy quyền để ký các điều ước quốc tế chỉ được ký điều ước sau khi đã được sự đồng ý của Quốc hội.

3-   Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước ký công bố điều ước quốc tế và điều ước có hiệu lực. 

Điều 42.  Tuyên bố tình trạng chiến tranh

1.   Quốc hội có quyền nhân danh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố tình trạng chiến tranh và ký kết hiệp ước hòa bình.

2.   Quốc hội chỉ có thể thông qua nghị quyết về tình trạng chiến tranh trong trường hợp có sự xâm lược quân sự đối với lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước tuyên bố tình trạng chiến tranh.

CHƯƠNG VI. HÀNH PHÁP

Điều 43. Chính phủ

1- Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

2- Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch, Nội các và các bộ quốc phòng, ngoại giao, công an.

3- Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng (trừ các bộ trưởng quốc phòng, ngọai giao và công an), Thứ trưởng. Có thể có Phó thủ tướng.

4- Quyền và nghĩa vụ của Chính phủ:

– Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Quốc hội.

– Đề nghị những dự án luật ra trước Quốc hội.

– Đề nghị những dự án luật ra trước Ủy ban Ban thường vụ quốc hội, trong lúc Quốc hội.không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.

– Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.

– Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.

– Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.

– Lập dự án ngân sách hàng năm.

5- Việc giải tán chính phủ đặt ra trong trường hợp Chủ tịch nước hết nhiệm kỳ hoặc bị tòa án xét xử xác định có tội. Các thành viên chính phủ có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ.

Điều 44. Chủ tịch nước

1- Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp là Chính phủ.

2- Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có thời hạn 5 năm và một Chủ tịch nước có thể được bầu lại nhưng không được quá hai nhiệm kỳ.

3- Một người đã giữ chức vụ Chủ tịch nước, sau khi nghỉ có thể được bầu làm Đại biểu quốc hội, được bổ nhiệm thẩm phán nhưng không được giữ bất kỳ chức vụ nào; không được làm bất kỳ công việc nào khác liên quan đến cơ quan hành pháp.

4- Công dân Việt Nam đủ 35 tuổi, tính đến ngày bầu cử, và có quyền bầu cử Quốc hội, có thể là ứng cử viên Chủ tịch nước. Chủ tịch nước do nhân dân trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bầu trực tiếp và bỏ phiếu kín.

5- Ủy ban bầu cử quốc gia sau khi nhận được danh sách đề cử của các liên danh giới thiệu ứng cử viên thì lập danh sách ứng cử viên chính thức chức vụ Chủ tịch nước. Danh sách giới thiệu này không quá 3 và không dưới 2 ứng cử viên để tổ chức cho nhân dân lựa chọn và bầu chính thức vào chức danh Chủ tịch nước. Việc lựa chọn do luật quy định.

6- Trong vòng hai tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch nước, Ủy ban bầu cử quốc gia tổ chức sàng lọc các ứng cử viên để bầu Chủ tịch mới.

7- Khi tham gia ứng cử Chủ tịch nước, các ứng cử viên phải trình bày chương trình hành động và tranh luận với nhau trên các phương tiện truyền thông để nhân dân biết mà quyết định bầu cử. Sau khi đắc cử, Chủ tịch nước phải đọc lời tuyên thệ “Tôi trịnh trọng tuyên thệ trước nhân dân rằng sẽ trung thành thực thi các nghĩa vụ của Chủ tịch nước bằng việc tuân thủ Hiến pháp, bảo vệ quốc gia, thúc đẩy tự do và thịnh vượng của nhân dân, nỗ lực bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Tôi tuyệt đối trung thành với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc; quyền, lợi ích và nghĩa vụ của người Việt Nam”.

8- Chủ tịch nước lãnh đạo trực tiếp các bộ Quốc phòng, Ngoại giao, Công an và Nội các. Nội các gồm các bộ còn lại do Thủ tướng lãnh đạo.

9- Phó chủ tịch nước, Thủ tướng và các bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao, công an do Chủ tịch nước lựa chọn để bổ nhiệm từ danh sách các đại biểu quốc hội và được quốc hội phê chuẩn. Việc bổ nhiệm, phê chuẩn này do luật định. Các đại biểu quốc hội sau khi được phê chuẩn các chức danh Phó chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng hoặc thứ trưởng thì vẫn làm đại biểu quốc hội. Các Bộ trưởng không do Chủ tịch nước bổ nhiệm như trên và các thứ trưởng thì do Thủ tướng bổ nhiệm. Bộ trưởng thì phải xuất phát từ nguồn đại biểu quốc hội và do quốc hội phê chuẩn. Còn thứ trưởng có thể từ ngoài và được Thủ tướng trình cho Ủy ban thường vụ quốc hội phê chuẩn. Trước khi được đề nghị các chức vụ phó chủ tịch nước, thủ tướng, bộ trưởng, thứ trưởng thì các đại biểu quốc hội phải được người đề xuất (chủ tịch nước, thủ tướng) trình văn bản hỏi ý kiến. Trường hợp đại biểu quốc hội từ chối thì phải đề xuất người khác. Nhân viên Ủy Ban thường vụ Quốc hội không được tham gia lãnh đạo trong Chính phủ.

10- Chủ tịch nước có thể bị khởi tố, truy tố, xét xử, phế truất theo điều 40 Hiến pháp này.

11-  Nhiệm vụ của Chủ tịch nước có thể chấm dứt trước kỳ hạn trong những trường hợp sau: (a) Chủ tịch nước chết; (b) Chủ tịch nước từ chức; (c) Chủ tịch nước bị truất quyền; và (d) do bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài, Chủ tịch nước không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực, trong trường hợp (d), phải được 3/4 lãnh đạo Chính phủ xác nhận, sau các cuộc giám định y khoa. Thành viện xác nhận này bắt buộc phải có Phó chủ tịch nước, thủ tướng và các bộ trưởng Quốc phòng, ngoại giao và Công an.

12.   Trong trường hợp Chủ tịch nước chấm dứt nhiệm vụ, Phó Chủ tịch nước sẽ đảm nhận chức Chủ tịch nước trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ.

13.   Trong trường hợp khuyết Phó Chủ tịch nước, Quốc hội bầu Phó Chủ tịch nước mới theo đề nghị của Chủ tịch nước.

14.   Trường hợp đồng thời khuyết cả Chủ tịch nước và Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội tạm thời làm quyền Chủ tịch nước cho đến khi Ủy ban bầu cử quốc gia bầu được Chủ tịch nước, theo phương thức đa số, cho thời gian còn lại của nhiệm kỳ. 

15- Thẩm quyền của Chủ tịch nước:

–  Hoạch định chính sách quốc gia;

–   Ký ban hành các đạo luật;

–   Ký các điều ước quốc tế, sau khi được Quốc hội phê chuẩn ký ban hành các điều ước quốc tế;

–   Bổ nhiệm các đại sứ với sự phê chuẩn của Thượng viện;

–   Tiếp nhận quốc thư, đón nhận các phái đoàn ngoại giao;

–   Tổ chức các cơ quan hành pháp theo quy định của luật;

–   Chỉ đạo hoạt động của các cơ quan hành pháp;

–   Bổ nhiệm các Bộ trưởng với sự chấp thuận của Quốc hội;

–   Bãi nhiệm các Bộ Trưởng;

–  Tổ chức các Hội đồng tư vấn;

–  Quyết định các vấn đề được luật quy định về đặc xá, giảm án, phục hồi các quyền và đại xá;

–  Trao các tước vị và danh hiệu theo các điều kiện luật định;

–  Trao quốc tịch Việt Nam;

–  Các quyền khác theo luật định. 

16- Chủ tịch nước thống lĩnh tối cao các lực lượng vũ trang

–   Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Thống lĩnh tối cao của các lực lượng vũ trang Việt Nam.

–   Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước phong cấp bậc quân hàm quân đội theo quy định của luật.

–  Thẩm quyền của Chủ tịch nước về quyền thống lĩnh tối cao đối với các lực lượng vũ trang sẽ được quy định cụ thể trong luật.

Điều 45. Phó chủ tịch nước

1- Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Chủ tịch nước chọn trong danh sách đại biểu quốc hội và được quốc hội thông qua, phê chuẩn.

2- Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

3- Phó chủ tịch là người giúp Chủ tịch nước trong nhiệm vụ Nguyên thủ quốc gia và điều hành chính phủ .

4- Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng Ủy ban bầu cử quốc gia phải bầu Chủ tịch mới.

 Điều 46. Thủ tướng và nội các

1-   Thủ tướng và các Bộ trưởng là các thành viên Chính phủ, được Chủ tịch nước bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn.

2.   Thủ tướng có trách nhiệm hỗ trợ Chủ tịch nước và điều hành các Bộ theo chỉ đạo của Chủ tịch nước, trừ các bộ quốc phòng, ngoại giao, công an do chủ tịch nước trực tiếp chỉ đạo.

3.   Không ai trong quân đội có thể được bổ nhiệm làm Thủ tướng trừ khi đã giải nhiệm.

4.   Cơ quan Công tố thuộc Bộ Tư pháp.

5- Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng thoả thuận với Ủy Ban thường vụ quốc hội để chỉ định ngay người tạm thay cho đến khi Quốc hội.họp và chuẩn y.

6- Quyền hạn của Chính phủ:

– Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Quốc hội.

– Đề nghị những dự án luật ra trước Quốc hội.

– Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ủy Ban thường vụ Quốc hội, trong lúc Quốc hội không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.

– Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.

– Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.

– Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.

– Lập dự án ngân sách hàng năm.

7- Mỗi quyết định, sắc luật của Chính phủ phải có chứ ký của Chủ tịch nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay nhiều Bộ trưởng tiếp ký. Các Bộ trưởng ấy phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

8- Bộ trưởng nào không được Quốc hội tín nhiệm thì phải từ chức. Toàn thể Chính phủ và Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về hành vi một Bộ trưởng.

9- Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Nhưng Quốc hội chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ủy Ban thường vụ Quốc hội hoặc một phần tư tổng số Đại biểu Quốc hội nêu vấn đề ấy ra.

10- Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Quốc hội thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức.

11- Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều chất vấn của Đại biểu Quốc hội hoặc của Ủy Ban thường vụ Quốc hội . Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được thư chất vấn.

Khi Quốc hội hết hạn hoặc tự giải tán, Nội các giữ chức quyền cho đến khi họp Quốc hội mới.

CHƯƠNG VII. TƯ PHÁP

Điều 47. Nguyên tắc độc lập

1- Trong khi xét xử, tòa án chỉ nhân danh công lý.

2- Thẩm phán các tòa án phải xét xử độc lập theo lương tâm, chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thẩm phán không được tham gia các đảng chính trị.

3- Trong khi xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thì phải có Hội thẩm nhân dân.

4- Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án.

5- Các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt xử kín do pháp luật quy định.

6. Bị can, bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa.

7- Những hành vi phạm tội mà khung hình phạt từ 5 năm tù trở lên bắt buộc phải có luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố điều tra.

8- Tòa án là cơ quan phê chuẩn lệnh tạm giữa, tạm giam hoặc không tạm giữa, tạm giam nghi can phạm tội theo báo cáo, đề xuất của cơ quan điều tra thuộc hành pháp.

9. Bộ Tư pháp đại diện Chính phủ truy tố một nghi can ra trước tòa để tòa án xét xử.

10- Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân.

Điều 48. Tổ chức cơ quan tư pháp

1.   Quyền lực tư pháp được trao cho các tòa án, gồm các thẩm phán có trình độ chuyên môn theo luật định.

2.   Các tòa án gồm: (a) Tòa án Tối cao,; (b) Các toà án phúc thẩm; (c) tòa án khu vực và (d) Tòa Bảo hiến.

Điều 49.  Thẩm phán Toà án Tối cao

1.   Chánh án Tòa án tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm với sự phê chuẩn của Quốc hội.

2.   Các Thẩm phán Tòa án Tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề xuất của Chánh án Tòa án Tối cao và với sự đồng ý của Quốc hội.

3.   Các thẩm phán khác do Chánh án Tòa án Tối cao bổ nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.

Điều 50. Nhiệm kỳ thẩm phán Toà án Tối cao

1.   Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án Tối cao là 6 năm và không thể được tái bổ nhiệm.

2.   Nhiệm kỳ của thẩm phán của Tòa án Tối cao là 6 năm và được tái bổ nhiệm theo quy định của luật.

3.   Nhiệm kỳ của các thẩm phán ngoài Chánh án và Thẩm phán của Tòa án Tối cao là 10 năm, được tái bổ nhiệm theo các điều kiện luật định.

4.   Tuổi về hưu của các thẩm phán được luật quy định.

Điều 51. Tòa Bảo Hiến

1.   Tòa Bảo Hiến là tòa án có chức năng xem xét, xét xử các hành vi của tất cả các cá nhân, tổ chức có nguy cơ hoặc đã vi phạm hiến pháp. Tòa Bảo Hiến gồm 15 thẩm phán được Quốc hội bầu chọn trong số những người có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật. Thẩm phán Tòa án Hiến pháp có nhiệm kỳ 9 năm và không thể được bầu chọn nhiều hơn một nhiệm kỳ.

2.   Chánh án và Phó Chánh án Tòa Bảo Hiến do Chủ tịch nưuớc bổ nhiệm trong số các ứng cử viên do Hội đồng thẩm phán Tòa Bảo Hiến giới thiệu.

3.   Tổ chức và hoạt động của Tòa án Hiến pháp được quy định trong một đạo luật.

Điều 52. Thẩm quyền của Tòa Bảo Hiến

1-   Sự phù hợp của luật và điều ước quốc tế với Hiến pháp;

2-   Sự phù hợp của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành với Hiến pháp;

3-   Sự phù hợp của mục tiêu, hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, tôn giáo với Hiến pháp;

4.   Tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương và giữa các chính quyền địa phương;

5.   Khiếu nại của những người cho rằng các quyền hiến định của họ đã bị xâm phạm bởi một đạo luật hay văn bản pháp luật khác trái với Hiến pháp.

CHƯƠNG VIII

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH

Điều 53. Địa phương

Nước Việt Nam về phương diện hành chính được chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh). Mỗi tỉnh, thành phố cấp tỉnh được chia thành huyện, quận (cấp huyện) tương ứng. Mỗi huyện, quận chia thành các xã, phường (cấp xã) tương ứng.

Điều 54. Hội đồng nhân dân

1- Hội đồng nhân dân chỉ có ở cấp tỉnh và cấp xã. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh do nhân dân địa phương bầu ra theo phương thức phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín.

2- Ủy ban bầu cử quốc gia có trách nhiệm giám sát việc bầu cử hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

3- Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên.

4- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bầu ra Chủ tịch Uỷ ban hành chính cấp tỉnh.

5- Hội đồng nhân dân cấp xã do nhân dân của cấp xã đó bầu ra. Việc tổ chức thực hiện do pháp luật quy định.

Điều 55. Chủ tịch Ủy ban hành chính cấp tỉnh

1- Chủ tịch Ủy ban hành chính cấp tỉnh sau khi được bầu phải được Chủ tịch nước phê chuẩn. Trường hợp Chủ tịch nước không phê chuẩn thì bắt buộc phải bầu lại.

2- Sau khi được Chủ tịch nước phê chuẩn, Chủ tịch Ủy ban hành chính cấp tỉnh bổ nhiệm các lãnh đạo khác thuộc Ủy ban hành chính và Chủ tịch Ủy ban hành chính cấp huyện để Hội đồng nhân dân phê chuẩn. Danh sách bổ nhiệm phải là các đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra.

Điều 56. Trách nhiệm của Uỷ ban hành chính:

1- Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.

2- Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y.

3- Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.

4- Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình.

5- Nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính có thể bị bãi miễn. Cách thức bãi miễn sẽ do luật định.

 

CHƯƠNG IX. CÁC CƠ QUAN HIẾN ĐỊNH ĐỘC LẬP

Điều 57. Quy định chung về các cơ quan hiến định độc lập

Các cơ quan hiến định độc lập, không phải là các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp, bao gồm Ngân hàng quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, Uỷ ban Bầu cử quốc gia, Ủy ban Nhân quyền và Hội đồng Hoà giải Dân tộc.

Điều 58. Ngân hàng Trung ương

1-    Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm nhiệm vai trò Ngân hàng Trung ương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2-  Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quy định bởi một đạo luật.

Điều 59. Kiểm toán Nhà nước

1-   Kiểm toán Nhà nước hoạt động theo các nguyên tắc nghề nghiệp.

2-   Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các pháp nhân và tổ chức nhà nước về tính hợp pháp, tính kinh tế, hiệu quả và sự mẫn cán.

3-   Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Quốc hội và có trách nhiệm trình Quốc hội: các báo cáo phân tích việc thực hiện ngân sách và các mục tiêu của chính sách tiền tệ; ý kiến liên quan đến việc chấp thuận quyết toán ngân sách; thông tin về kết quả kiểm toán, kết luận kiểm toán và kiến nghị theo quy định của luật.

4.   Chủ tịch Kiểm toán Nhà nước không được tham gia đảng chính trị hay bất cứ hoạt động công vụ nào khác không phù hợp với chức trách của mình.

5.   Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước được quy định bằng một đạo luật.

Điều 60. Ủy ban Bầu cử quốc gia

1.   Các Ủy ban Bầu cử được thiết lập với mục đích điều hành công bằng các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý toàn quốc, xử lý các vấn đề hành chính liên quan đến các tổ chức chính trị.

2.   Ủy ban Bầu cử Trung ương gồm 3 thành viên do Chủ tịch nước bổ nhiệm, 3 thành viên do Quốc hội lựa chọn và 3 thành viên do Chánh án Tòa án Tối cao lựa chọn. Các thành viên của Ủy ban thành viên bầu ra một Chủ tịch.

3.   Nhiệm kỳ của thành viên Ủy ban là 6 năm.

4.   Các thành viên Ủy ban không thể tham gia các đảng chính trị hoặc các hoạt động chính trị.

5.   Các chiến dịch tranh cử được thực hiện dưới sự điều hành của Ủy ban Bầu cử mỗi cấp trong phạm vi luật định với nguyên tắc bảo đảm cơ hội bình đẳng cho các ứng cử viên.

6.   Tổ chức, chức năng và các vấn đề quan trọng khác của Ủy ban Bầu cử Trung ương và Ủy ban Bầu cử các cấp sẽ do luật quy định.

Điều 61. Ủy ban Nhân quyền

1-  Ủy ban Nhân quyền là một cơ quan độc lập, có vai trò thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy ban Nhân quyền do Quốc hội thành lập, gồm 9 thành viên, có sự tham gia của đại diện nhiều thành phần xã hội.

2-   Ủy ban Nhân quyền có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

–    Giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng, công chức và viên chức về quyền con người;

–     Tư vấn cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội về các vấn đề liên quan đến quyền con người;

–      Nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người;

–     Nhận các khiếu nại về các vi phạm các quyền được quy định tại tại Hiến pháp này hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

3-   Thành viên Ủy ban Nhân quyền không giữ bất kỳ chức vụ nào khác, trừ chức vụ giảng viên đại học, cũng không thực hiện bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào khác. Các thành viên cũng không được tham gia đảng chính trị nào, không thực hiện các nhiệm vụ công không phù hợp với chức trách của mình.

4-   Phương thức tổ chức và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền sẽ được quy định bởi một đạo luật.

Điều 62.  Hội đồng Hoà giải Dân tộc

1.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hận, hướng đến việc khắc phục các sai lầm trong quá khứ, nhằm mang lại công bằng, đoàn kết dân tộc, phát huy các năng lực của người Việt Nam trên toàn thế giới.

2.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc gồm 19 thành viên do Quốc hội bổ nhiệm. Năm (5) thành viên đến từ mỗi khu vực miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam và bốn (4) thành viên thuộc cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

3.   Hội đồng Hoà giải Dân tộc có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

– Nghiên cứu, xác định lại giá trị pháp lý của các luật, điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trong quá khứ ban hành, ký kết trái thẩm quyền hoặc gây hại nghiêm trọng cho quốc dân. Đề xuất với Quốc hội các giải pháp khắc phục các sai lầm quá khứ.

– Tập hợp thông tin, đề nghị trả tự do, tổ chức việc đối thoại, xin lỗi, bồi thường cho những người đã từng bị xử phạt, điều tra, truy tố, xét xử oan, chỉ vì lý do họ đã có những hành động nhằm thúc đẩy dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội, nhằm bảo vệ các quyền con người, hoặc chỉ để thực thi các quyền tự do của mình.

– Nghiên cứu, trình Quốc hội các chính sách, dự án luật có thể khắc phục những sai lầm khác của các chế độ trong quá khứ nhằm hoà giải và hòa hợp dân tộc.

4- Hội đồng Hoà giải Dân tộc sẽ được Quốc hội giải tán sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ.

CHƯƠNG X. SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

Điều 63. Thủ tục sửa đổi Hiến pháp

1.   Một dự luật sửa đổi Hiến pháp có thể được trình bởi ít nhất 1/5 số đại biểu quốc hội theo luật định, hoặc Chủ tịch nước.

2.   Nếu Chủ tịch nước trình dự luật sửa đổi Hiến pháp thì dự luật không được thay đổi các điều khoản liên quan đến Chủ tịch nước trong Hiến pháp hiện hành.

3.   Việc sửa đổi Hiến pháp phải được thực hiện bởi một đạo luật được Quốc hội thông qua với cùng nội dung trong thời hạn 60 ngày.

4.   Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Quốc hội thông qua nếu được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Đại biểu quốc hội theo luật định.

5.   Trong vòng 60 ngày kể từ khi Dự luật sửa đổi Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua phải tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân phúc quyết. Tiến trình, nội dung, kết quả phúc quyết do luật định.

CHƯƠNG XI. ĐIỀU KHOẢN CHUYỂN ĐỔI

Điều 64. Hiệu lực Hiến pháp và quy định chuyển đổi

1- Hiến pháp này có hiệu lực sau 100 ngày kể từ ngày được nhân dân phúc quyết thông qua.

2- Trong vòng 100 ngày sau khi Hiến pháp có hiệu lực, Quốc hội hiện hành (đã thông qua Hiến pháp) phải căn cứ vào đó ban hành các luật mới về bầu cử Quốc hội và bầu cử Chủ tịch nước. Các cuộc bầu cử Quốc hội và Chủ tịch nước đầu tiên theo quy định của Hiến pháp này thi hành theo quy định của các luật đó trong vòng 180 ngày từ khi luật có hiệu lực.

3- Chính phủ, trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có hiệu lực, phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, đệ trình để Quốc hội sửa đổi các quy định trái với Hiến pháp và ban hành các luật mới nhằm thực thi Hiến pháp.

4- Trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có hiệu lực, pháp luật đang có hiệu lực vào thời điểm Hiến pháp được Quốc hội thông qua vẫn còn giá trị. Sau thời hạn 2 năm này, tất cả các quy định trái với Hiến pháp này đều trở nên vô hiệu, các quy định khác không bị bãi bỏ hoặc không trái hiến pháp này vẫn còn giá trị.

 (Người biên tập: DƯƠNG PHI ANH)

THUYẾT TRÌNH, GIẢI TRÌNH VỀ BẢN DỰ THẢO HIẾN PHÁP NÀY

DƯƠNG PHI ANH

 

Với trách nhiệm của công dân, theo lời vận động, động viên  trong việc sửa đổi Hiến pháp, đặc biệt là khi có trang “Cùng viết hiến pháp” của các GS có uy tín cao như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn…, tôi cũng tích cực nghiên cứu và cố tìm giải pháp, ý tưởng với mong muốn là tốt cho một bản Hiến pháp thực sự dân chủ, của dân, do dân và vì dân.

Khi tiến hành biên tập, sắp xếp thành bản dự thảo Hiến pháp này, công việc mà tôi gọi là “tập viết hiến pháp”, tôi đã tham khảo và kế thừa rất nhiều quy định trong Hiến pháp 1992, Hiến pháp 1946, Hiến pháp Pháp, Mỹ (đã được dịch ra tiếng Việt). Đặc biệt, tôi đã lấy rất nhiều kiến thức trong bản dự thảo Hiến pháp mẫu của các trí thức vừa trình Ban sửa đổi Hiến pháp vừa qua để đưa vào bản tập viết của tôi.

Tôi xin trình bày những quan điểm lập hiến, những giải trình cơ bản và những vấn đề còn thiếu sót do trình độ và thời gian hạn chế của tôi. Dưới đây là những quan điểm của tôi khi biên tập bản dự thảo HP này:

 

1. Về quan điểm lập hiến của tôi:

1.1 Trước hết, phải xác định rõ Hiến pháp là đạo luật cơ bản xây dựng các nguyên tắc, thiết kế mô hình vận hành của các chủ thể trong xã hội, mà đặc biệt là xoay quanh sự vận hành của bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị. Người ta thường không quy định một cách chung chung, cảm tính, mang tính khẩu hiệu hoặc quy một cách chi tiết quá mức trong HP. Hiến pháp thường là sự thiết kế phương cách vận hành của bộ máy nhà nước, mà cụ thể là của ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Từ sự vận hành hiệu quả đó, sẽ phát huy hiệu quả các quan hệ khác trong xã hội. Những nước có nền hiến pháp tốt không hề quy định chi tiết về các chế định như  “chế độ kinh tế”, hoặc quy định về đảng phái cầm quyền trong HP…

1.2 Khi muốn có nhà nước hoạt động một cách dân chủ và của dân, do dân, vì dân (cộng hòa) thì không thể có chính thể nào khác ngoài “Dân chủ cộng hòa”. Nên đặt “Việt Nam”, tên đất nước, lên trên hình thức chính thể “dân chủ cộng hòa” như HP 1946 là hết sức đúng đắn. Vì là “Việt Nam dân chủ cộng hòa” nên rất nhiều quy định trong HP 1992 đã không được sử dụng ở đây, do không trùng quan điểm lập hiến. Tôi sử dụng được nhiều nhất là các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân và một số quy định mang tính nguyên tắc như “trách nhiệm bảo vệ tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ”…

1.3 Xuất phát từ lịch sử lập hiến của VN và các vấn đề lịch sử khác, nên quy định về Chủ tịch nước thay vì Tổng thống; Quốc hội hay Nghị viện (có giá trị tương đương, tương đối), nên gọi theo các tên gọi nào là điều cần đặt ra thảo luận…

 

2. Những điểm mới cơ bản

2.1 Về quốc hội: Một số quy định ở đây được lấy theo Bản dự thảo HP mẫu của các trí thức. Trong đó, tôi còn bổ sung một số chi tiết về sáng kiến lập pháp và bổ sung quy định cho phép vận động hành lang (lobby) trong đệ trình, thuyết trình và thông qua một dự luật. Khi xây dựng luật và chính sách, bao giờ cũng có các nhóm lợi ích ẩn sau đó để mong mang về nhiều quyền lợi nhưng hạn chế nghĩa vụ cho mình. Điều này cần thừa nhận như một sự hiển nhiên, “một thực tế trong đời sống chính trị”. Nên, cần thiết phải được luật hóa để điều chỉnh một cách có hệ thống và thể hiện sự minh bạch, trong sáng, tích cực của hoạt động này. Đây là cách làm của Mỹ. Ví dụ ở bản dự thảo này: Khi quy định Ủy ban thường vụ quốc hội trình dự luật nhưng trong trường hợp không chịu trình thì cũng buộc phải trình khi dự luật được 1/3 đại biểu quốc hội đồng ý. Có nghĩa là có cơ chế tránh lạm quyền của Ủy ban thường vụ quốc hội và có cơ chế vận động hành lang giữa người có sáng kiến lập pháp với 1/3 đại biểu quốc hội. Sự vận động này phải hết sức minh bạch, do luật quy định… Quy định như vậy nhằm khơi gợi sự tích cực xây dựng luật, đa dạng hóa nguồn dự thảo luật là thu hút được trí tuệ của nhiều giới, nhiều nhóm trong xã hội về xây dựng pháp luật.

2.2 Chế định về chủ tịch nước: Đây là điểm mới có phần quay lại HP 1946 là Chủ tịch nước đứng đầu cơ quan hành pháp và có Thủ tướng. Tuy nhiên, để phát huy vai trò cá nhân của người đứng đầu chính phủ, điểm khác ở đây là Chủ tịch nước do dân trực tiếp bầu ra. Vì vậy, chức năng, vai trò của Chủ tịch nước theo bản dự thảo này gần giống với Tổng thống Pháp. Quyền lực của Chủ tịch nước được nâng hơn khi trực tiếp quản lý các bộ: Quốc phòng, Ngoại giao và Công an để kiểm soát sự lạm quyền của Thủ tướng và các bộ trưởng khác (nếu có). Thực ra, nếu để chế độ đại nghị trong việc lựa chọn người đứng đầu cơ quan hành pháp có những điểm yếu là sự rắc rối như phải có đa số phiếu, phải liên minh cầm quyền… Nên chọn người đứng đầu cơ quan hành pháp bằng cách để người dân bầu trực tiếp là tối ư nhất.

2.3 Chế độ bầu cử dân chủ: là hết sức quan trọng nên cần quy định về chế độ bầu cử chặt chẽ, có nguyên tắc. Ủy ban bầu cử quốc gia chuyên thực hiện việc lựa chọn nhân tài, không phân biệt cho nhà nước là cần thiết phải đưa vào HP. Cho Ủy ban bầu cử quốc gia giám sát hoạt động bầu cử địa phương nhằm tránh sự cục bộ, bè phái địa phương cũng hết sức cần thiết.

2.4 Tòa án cần xét xử độc lập nên quy định độc lập, không bị ảnh hương bởi cương lĩnh của đảng phái chính trị, nên bắt buộc thẩm phán không thể là đảng viên. Tòa bảo Hiến là hết sức cần thiết để phán quyết những hành vi vi hiến, thể hiện sự nghiêm minh trong việc chấp hành hiến pháp. Lập tòa khu vực để xét xử là để tránh được sự can thiệp, cục bộ địa phương là méo mó phán quyết của tòa.

2.5 Hiến pháp thực sự là bản khế ước : Giao quyền của nhân dân cho nhà nước. Vì vậy, khi quy định trong HP quyền lợi và nghĩa vụ công dân đầy đủ thì cần chú trọng quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà nước. Quyền của nhà nước đã có sẵn trong các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì vậy, chỉ cần chú trọng quy định về Nghĩa Vụ Của Nhà Nước, điều mà trước nay chưa có bản hiến pháp nào quy định cụ thể.

2.6 Hiến pháp chủ yếu xoay quanh sự vận hành của bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, bảo đảm quyền và nghĩa vụ công dân, quyền hoạt động bình thường của các tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo. Vì vậy, các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể và tôn giáo không nên đưa cụ thể vào HP mà phải quy định bằng các đạo luật. HP chỉ quy định như một sự thừa nhận tồn tại và tôn trọng hoạt động của các tổ chức đó mà thôi. Không quy định cụ thể về đảng phái chính trị mà nêu “các tổ chức chính trị” là để luật cụ thể hóa về điều đó…

2.7 Về HĐND và Ủy ban hành chính : Theo tôi, HP 1946 quy định khá tốt. Ở đó, HĐND chỉ có ở cấp tỉnh và cấp xã thôi, không có HĐND cấp huyện để tránh những khâu trung gian không cần thiết.

2.8. Quy định về các cơ quan hiến định độc lập và việc sửa đổi, tu chính HP thì theo tôi bản dự thảo HP mẫu của các trí thức quy định chặt chẽ nên đã có sự trích dẫn vào đây.

2.9 Bản dự thảo này cũng không đề cập đến Viện kiểm sát mà chỉ đề cập đến Viện Công tố, trực thuộc Bộ Tư pháp mà thôi. Vì không nên có một cơ quan độc lập đầu quyền lực ngoài cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp mà quyền công tố là do chính phủ thay mặt là đủ.

2.10 Một vấn đề mà Dự thảo HP mẫu của các trí thức đề ra việc cần phải lập Quốc hội thành 2 viện: Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Thực ra, đặt vấn đề thượng viện, hạ viện cần phải xem xét truyền thống, lịch sử nghị viện của VN. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà lập hiến của Hiến pháp 1946 cũng đặt tên là Nghị viện nhưng không phân ra thượng viện hay hạ viện?! Thượng viện thường gắn liền với Viện nguyên lão, cụ thể hơn là gắn với giới quý tộc, có vị trí trong xã hội. Còn hạ viện mới thực sự đại diện cho nhân dân. Ở VN, hình như vấn đề thượng viện còn rầt mờ nhạt và cũng muốn tạo sự đồng thuận của đại bộ phận nhân dân lao động (chủ yếu nông dân) nên ngay từ những ngày đầu lập hiến, các học giả đã không phân biệt thượng viện hay hạ viện cho VN. Đó là một điều cần tham khảo và nghiên cứu. Tương tự, nếu lấy nguyên thủ quốc gia là Tổng thống cũng sẽ có sự lấn cấn về mặt quan điểm, khó thông qua với số đông vì một số đặc điểm lịch sử, văn hóa Việt, mặc dù ở miền Nam VN từng có Đệ Nhất, Đệ Nhị cộng hòa (tổng thống)…

2.11 Bản dự thảo này tập trung rất nhiều về những vấn đề hạn chế quyền lực của những người cầm quyền vì sự lạm quyền trong quyền lực nhà nước cũng luôn hiện diện như sự tất yếu, bản chất. Các đại biểu, người do dân trực tiếp bầu lên cầm quyền cũng cần minh bạch nếu không còn xứng đáng thì phải bị dân bãi bỏ, phế truất. Vì vậy, bản dự thảo HP này tập trung nhiều quy định làm rõ các quy trình bãi bỏ, phế truất những người do dân trực tiếp bầu ra…

2.12 Chế độ tư nhân về đất đai: Là vấn đề mới. Hầu hết các Hiến pháp tốt đều công nhận tư nhân có quyền sở hữu đất đai, thể hiện sự bình đẳng như các chủ sở hữu khác. Trong bản dự thảo này có khái niệm “sở hữu quốc gia”. Nó chỉ xảy ra trong trường hợp “Những vùng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời không thuộc tài sản của các chủ sở hữu khác theo quy định pháp luật thì mặc nhiên được công nhận tài sản quốc gia.”. Thực ra, trước đây khái niệm “sở hữu toàn dân về đất đai” bị hiểu lệch lạc. Đúng ra nó phải được hiểu tương tự khai niệm “sở hữu quốc gia”. Tức là, “sở hữu toàn dân” là khái niệm chung, bao gồm: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các tổ chức, sở hữu tư nhân. Ở đây, người ta đánh tráo khái niệm giữa “sở hữu toàn dân” và “ở hữu nhà nước”…

2.13 Về lực lượng quân đội, công chức không lệ thuộc chính trị: Đây là tính chuyên nghiệp. Quân đội chỉ trung thành với tổ quốc, không lệ thuộc vào chính trị là đương nhiên! Còn lực lượng công chức cũng vậy, họ là những người chuyên nghiệp về hành chính như những công bộc của dân, không phụ thuộc chính trị hay chính phủ thuộc đảng phái nào…

2.14 Về Cảnh sát là lực lượng bảo vễ trị an, thuộc lĩnh vựa dân sự: Lâu nay, người ta nhầm lẫn lực lượng cảnh sát thuộc vũ trang. Thực ra, cảnh sát là để bảo vệ xã hội dân sự hoạt động theo đúng trật tự, pháp luật, do chính phủ quản lý là đúng bản chất, chức năng… chứ không phải để bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia, quốc phòng là chức năng của lực lượng khác.

 

3. Một số hạn chế

 

3.1 Do trình độ và thời gian hạn chế, nên tôi biết vẫn còn nhiều điều chưa chặt chẽ, thiếu sót. Cụ thể sẽ còn thiếu nhiều về các như quy định về quyền và nghĩa vụ công dân; nghĩa vụ của nhà nước; quy định về chức năng, thẩm quyền quốc hội; về chủ tịch nước; tòa án…, vẫn còn nhiều điều thiếu. Đây là điều cần sự trao đổi, bổ sung của những ai quan tâm.

3.2 Mặc dù tôi cố gắng bổ sung để khắc phục các hạn chế của HP 1946 và cả những hạn chế của Bản dự thảo HP mẫu của các trí thức (chẳng hạn quy định rất nhiều từ “có thể” trong dự thảo HP mẫu là không chặt chẽ, như: “đất đai có thể thuộc sở hữu cá nhân”… Hoặc, bản dự thảo HP mẫu có những quy định quá chi tiết như một đạo luật chuyên ngành…) nhưng chắc chắn rằng không thể không có sai sót, mâu thuẫn, sắp xếp chưa được logic…, trong bản dự thảo do tôi biên tập. Rất mong sự phát hiện, góp ý xây dựng của mọi người.

3.3 Khi tiến hành biên tập bản dự thảo này, tôi biết cũng chẳng được sử dụng vì quan điểm sửa đổi HP 1992 đã nói rõ trong tờ trình do Chủ tịch Quốc hội ký rồi: “…2.6. Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. »…  

Tuy nhiên, tôi vẫn biên tập để ôn lại một vài nghiên cứu về Hiến pháp như một sở thích. Tôi tâm niệm muốn có một nhà nước dân chủ thực sự, tránh được sự lạm quyền, tiêu cực chủ yếu từ cơ quan hành pháp thì phải có quốc hội và tòa án mạnh, độc lập. Tôi thích nhất trong bản HP dự thảo này là quy định về Hoạt động xây dựng luật có quy chế vận động hành lang và quy định Chủ tịch nước do dân trực tiếp bầu ra…

Đây có lẽ là một việc làm « cho vui », như một kỷ niệm về « đợt sinh hoạt chính trị góp ý sửa đổi Hiến pháp… » ! Nhưng, dù sao, khi bắt tay vào « tập viết hiến pháp », cũng giống tâm thế của các trí thức đau đáu với đất nước, tôi không có mục đích gì ngoài việc mong muốn Hiến pháp là một khế ước (hợp đồng) thực sự do nhân ủy quyền cho nhà nước thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng nhân dân trong xã hội. Nói như một chuyên gia, có nhiều nước biến Hiến pháp thành như là cương lĩnh, nghị quyết của một tổ chức chính trị thông qua nhà nước. Hiểu theo nghĩa đó thì không còn là hiến pháp với tư cách là « khế ước » nữa, mà chỉ là nơi để tổ chức chính trị, nhà nước ban phát quyền cho công dân, hoặc yêu cầu các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện nghĩa vụ, trong khi nghĩa vụ của nhà nước lại mờ nhạt với các đối tượng ấy…

Trước đây đi học, thầy giáo giao bài tập « tập viết một bản Hiến pháp », nên nhân dịp này tôi muốn rèn luyện lại kỹ năng tập viết một bản Hiến pháp như một bài kiểm tra trước đây. Vì vậy, tôi rất mong những người quan tâm đóng góp ý kiến, trao đổi để tôi được sáng tỏ hơn. Đồng thời, tôi rất mong nhận được sự lượng thứ của mọi người nếu tôi còn có điều gì sai, ấu trĩ…

Chân thành cám ơn !