Mùa xuân Ả rập’ và Mùa xuân Myanmar

Mùa xuân Ả rập’ và Mùa xuân Myanmar
05:43 2 thg 1 2013Công khai2 Lượt xem 0

Cùng thuộc về một làn sóng dân chủ hóa trên thế giới, nhưng “Mùa xuân Ả rập” để lại những vết thương sâu sắc chưa hứa hẹn ngày lành, thì Mùa xuân Myanmar cũng chính là quá trình làm lành vết thương của thời kỳ độc tài.

Mùa xuân bão táp ở Ả rập

Một loạt chế độ tại Ả rập – từng ưỡn ngực với sự “đặc thù” của văn hóa Hồi giáo mà từ chối nền dân chủ – đã đồng loạt đi đến hồi kết. Tất cả được châm mồi với chỉ một đốm lửa ở Tunisia hai năm trước.

…Trong Mùa xuân Ả rập, cựu Tổng thống Yemen Ali Saleh đã ra đi theo một cách êm ả nhất có thể: ông từ chức sau 33 năm cầm quyền và sang Mỹ đổi lại quyền miễn tố, để lại một Yemen kiệt quệ và đối mặt với các cuộc nổi dậy và nội chiến.

Hầu hết trong số đó đều tiếp tục nhiệm kỳ của mình sau các cuộc “bầu cử” không có ứng cử viên đối lập và chiến thắng với tỷ lệ phiếu bầu cực cao. Nhưng sự “tín nhiệm cao” đó không che giấu được những vấn đề trầm trọng của dân chúng và khối tài sản kếch xù của những nhà cầm quyền.

Và những cuộc nổi dậy của “Mùa xuân Ả rập” đã lột tả bản chất của sự “tín nhiệm cao” chính là sự sợ hãi của dân chúng, chứ không phải vì đó là chính quyền của nhân dân như các nhà độc tài vẫn tự xưng.

Nhưng sự cai trị bằng nỗi sợ hãi của dân chúng cũng tạo ra sự căm phẫn âm ỉ, và nó sẽ bùng lên khi tích tụ đủ mạnh và có một mồi lửa ném vào.

Cái giá mà đất nước họ phải trả còn lớn hơn thế. Là sự kiệt quệ của dân chúng do sự bòn rút của họ. Là sự hèn đụt và tính thụ động của dân chúng do sự đe dọa của họ. Là sự khủng hoảng lòng tin và đạo đức của dân chúng, do sự cai trị vô đạo đức và chia rẽ dân chúng của họ. Và cuộc nổi dậy như một vết thương được làm loét thêm, do tâm lý trả thù không chỉ nhằm vào nhà độc tài mà còn hướng cả vào những người từng tham gia hệ thống ấy, và những người được lợi nhờ hệ thống ấy, tạo ra một xã hội bị chia rẽ.

Mùa xuân ấm áp với Myanmar

Myanmar, giành độc lập năm 1948, bị hết thống tướng này đến thống tướng khác cai trị sau cuộc đảo chính quân sự năm 1962. Trong ngôn ngữ của chính trị học, đó là chế độ Qủa đầu (độc tài nhóm), một hình thức tinh vi hơn của độc tài cá nhân.

Dù tinh vi tới đâu thì bản chất của mọi chế độ độc tài đều là cai trị đất nước để phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cai trị, thay vì để phụng sự nhân dân và đất nước. Đó là nguyên nhân Myanmar từ vị thế là một đất nước phát triển hàng đầu châu Á đầu thập kỷ 1960 đã tụt hậu và kiệt quệ thành một nước lạc hậu nhất ở Đông Nam Á những năm qua.

Đứng trước nguy cơ bị lệ thuộc vào cường quốc láng giềng, giới lãnh đạo Myanmar đã có những thay đổi kịp thời và ngoạn mục.

Cuộc bầu cử dân sự năm 2010 tưởng như chỉ là mang tính hình thức để hợp thức hóa sự cai trị của những tướng lĩnh cũ, mà Tổng thống được bầu vào Mùa xuân 2011 Thein Sein nằm trong số này. Lần đầu tiên nắm quyền cao nhất ở Myanmar, vị tướng cũ đã từ bỏ đường lối cai trị độc tài, bằng cách chấm dứt những dự án của cường quốc láng giềng gây nguy hại cho Myanmar, công nhận đảng đối lập và tổ chức cuộc bầu cử bổ sung tự do vào Mùa xuân 2012, phóng thích hàng loạt tù nhân lương tâm, và cho phép tự do báo chí.

Myanmar còn có một nhân vật vĩ đại nữa làm biểu tượng cho quá trình dân chủ hóa: Aung San Suu Kyi, người đã để lại gia đình của mình ở nước Anh để trở về nước vận động dân chủ năm 1988 bất chấp bị đàn áp, đe dọa, bắt bớ, cấm tranh cử, rồi bị giam lỏng trong thời gian bầu cử năm 1990. Kết quả: bà chiến thắng áp đảo cùng Đảng của mình (82% số phiếu) nhưng bị từ chối chuyển giao quyền lực và tiếp tục bị giam lỏng, và bà từ chối rời khỏi đất nước để tiếp tục cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ngày đó đã đến như mong mỏi của bà và nhân dân Myanmar, cho dù Đảng của bà chỉ tranh cử ở cuộc bầu cử bổ sung 45/664 ghế.

Một người từ bỏ quyền lực độc tài để đưa đất nước đến với dân chủ, và ca ngợi đối thủ từng bị phe mình giam giữ. Một người đã chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ nhưng chấp nhận sự cai trị của chính phe phái từng tước đoạt quyền lực của mình, thậm chí vận động quốc tế xóa bỏ cấm vận với chính quyền đương nhiệm, để tìm kiếm sự khởi đầu mới cho quá trình dân chủ hóa đất nước. Qúa trình dân chủ hóa của Myanmar, nhờ vậy, đồng thời là quá trình hòa giải dân tộc, giúp Myanmar không chỉ giữ được hòa bình mà còn giảm nguy cơ bị chia rẽ.

Đó là lý do cả hai được xếp hàng đầu trong danh sách 100 nhà tư tưởng của thế giới năm 2012 do Tạp chí Foreign Policy (Mỹ) lựa chọn. Riêng Thein Sein được tờ Straits Time (Singapore) bình chọn là Nhân vật châu Á của năm 2012. Vì từ bỏ độc tài quyền lực để trả quyền lực về cho nhân dân luôn là lựa chọn vô cùng khó khăn của mọi chế độ độc tài trong lịch sử.

Nhưng đó là lối thoát duy nhất cho một quốc gia muốn phát triển, và ngay lập tức đầu tư nước ngoài đã xếp hàng vào Myanmar. Và cũng là lối thoát duy nhất cho nhà độc tài để tránh bị xét xử hay bị giết hại khi dân chúng nổi dậy và trả thù, như đã diễn ra với “Mùa xuân Ả rập”.

Ba ngàn năm trước, nhà tư tưởng chính trị Khương Tử Nha đã thấu hiểu điều đó khi nhắc nhở Chu Văn Vương rằng: Thiên hạ không của riêng ai, thiên hạ là của cả thiên hạ, chung lợi ích với thiên hạ thì được thiên hạ, đoạt lợi ích của thiên hạ thì mất thiên hạ. Nhờ tư tưởng đó, nhà Chu tồn tại tới tám trăm năm, và là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất về tư tưởng, triết học, binh pháp, kỹ thuật của Trung Quốc cổ và trung đại.

Ngày nay, không cần phải thông thái như Khương Tử Nha cũng biết điều đó. Quá nửa quốc gia trên thế giới là những nền dân chủ, thể chế buộc chính quyền phải chung lợi ích với thiên hạ, thay vì chờ đợi chính quyền tự nguyện như triều đại nhà Chu. Nhờ thế, những quốc gia thịnh vượng nhất, văn minh nhất đều là những nền dân chủ.

Hồng Ngọc
Bộ máy tham nhũng sao hút được người tài?

– Khi bộ máy còn tham nhũng, quan liêu lãng phí ở mọi cấp mọi ngành thì làm sao thu hút và trọng dụng được nhân tài – Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Bộ Công an bình về dự thảo nghị định thu hút công chức tài năng đang được Bộ Nội vụ soạn thảo.

Người đứng đầu phải biết cầm cân nảy mực
Dự thảo nghị định thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng công chức tài năng do Bộ Nội vụ soạn thảo đưa ra đối tượng rất rộng, là những người đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, tốt nghiệp đại học từ loại giỏi trở lên… Xác định công chức tài năng dựa vào yếu tố “bằng cấp” như vậy theo ông có quá rộng và liệu có làm nảy sinh tiêu cực?

– Ý tưởng nêu trong đề án rất tích cực, với mong muốn thu hút được nhiều người tài vào khu vực công. Đồng thời, nó cũng phù hợp với xu thế hiện nay là cạnh tranh nhân tài.

Thiếu tướng Lê Văn Cương: Người đứng đầu giỏi, công tâm mới tập hợp được người giỏi. Ảnh: VietNamNet
Để nhận diện thế nào là công chức tài năng, ban soạn thảo đưa ra căn cứ yếu tố đầu vào, đó là tiêu chuẩn phải tốt nghiệp khá giỏi ĐH, thạc sĩ.

Tuy nhiên, trong cuộc hội thảo vừa qua ở Hải Dương, nhiều người chưa tán thành tiêu chí này. Tài năng trong lĩnh vực học tập nghiên cứu và tài năng thực hành khác nhau. Một người có thể giỏi trong lĩnh vực chuyên môn hẹp nhưng khi dự tuyển làm công chức cũng cần đáp ứng các tiêu chí khác nữa.

Do các tiêu chí để xét công chức tài năng chưa có nên đánh giá chủ quan của người đứng đầu có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, người đứng đầu cơ quan phải là người biết cầm cân nảy mực, công tâm, biết thu hút và tập hợp được những người giỏi và tốt xung quanh mình. Chỉ khi đó mới đưa ra quyết định chính xác để tuyển lựa được người tài.

Theo đề án thì ai đủ điều kiện đạt bằng khá giỏi sẽ được thủ trưởng tuyển thẳng. Nhiều người vẫn e ngại tiêu chuẩn bằng cấp sẽ làm nảy sinh tiêu cực?

– Bằng cấp là cần thiết nhưng không phải khi nào cũng tương đương với năng lực giải quyết công việc. Nhất là với chất lượng đào tạo như hiện nay.

Tôi cho rằng phải đi bằng cả hai chân. Một mặt công nhận tiêu chuẩn bằng cấp, nhưng mặt khác vẫn phải thông qua hình thức thi tuyển công bằng. Chỉ có ngoại lệ với một số cá nhân mà tài năng đã được thừa nhận và khẳng định.

Hình thức thi tuyển, điều kiện, tiêu chí, vị trí tuyển dụng phải công khai.

Dự thảo cũng nêu, cán bộ, công chức ở các vị trí lãnh đạo, quản lý, các cấp ủy Đảng và tổ chức chính trị – xã hội có trách nhiệm phát hiện và tiến cử, giới thiệu những người có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực đáp ứng được ngay yêu cầu… và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề nghị, tiến cử của mình. Quy định này liệu có khuyến khích việc giới thiệu người tài?

– Quy định nói trên mang ý nghĩa là ràng buộc trách nhiệm của người tiến cử, nhưng theo tôi tất cả những người được thủ trưởng tiến cử cũng phải thông qua thi tuyển chứ không phải hễ được tiến cử thì mặc nhiên đưa vào bộ máy. Làm như vậy sẽ nảy sinh tiêu cực.

Tuy nhiên, người tài thường có tính tự trọng rất cao, chỉ e nếu áp dụng cơ chế thi tuyển cào bằng có thể sẽ không khích lệ được họ vào làm việc ở cơ quan nhà nước?

– Bởi vậy mà nhân tố công khai rất quan trọng. Thông tin về chỉ tiêu tuyển dụng, điều kiện và kết quả tuyển dụng cần công khai, minh bạch. Hội đồng chấm thi cũng phải hết sức khách quan, với một đề bài hợp lý.

Tôi đồng tình với quy định cho phép tiến cử nhưng phải xem đó chỉ là tiền đề bước đầu, sau đó vẫn phải thông qua thi tuyển.

Đối với các vị trí quản lý tôi vẫn ủng hộ xu hướng phải thi tuyển cạnh tranh, với nhiều ứng viên và phải tranh cử công khai.

Bộ máy phải trong sạch

Ngoài việc tuyển dụng thì cơ chế đãi ngộ và môi trường làm việc để người tài có cơ hội cống hiến là rất quan trọng. Đề án đã giải quyết được vấn đề này chưa, thưa ông?

– Đề án đã mạnh dạn đưa ra nhiều ý tưởng mới về cơ chế đãi ngộ, đảm bảo quyền lợi cho công chức tài năng. Tất nhiên với người có tài năng thì phải có cơ chế biệt đãi chứ không thể đối xử cào bằng. Nhưng ngoài ra, người tài cần có nhu cầu được ghi nhận công trạng bằng các hình thức tuyên dương, khen thưởng, rồi một môi trường làm việc phù hợp để phát triển tài năng. Các vấn đề này chưa được nói đến trong đề án.

Mấy năm trước đã xuất hiện một dòng chảy những người tài rời khỏi khu vực cơ quan nhà nước mà lý do phần lớn là do họ cảm thấy môi trường làm việc bế tắc không phát huy được năng lực.

Có ý kiến cho rằng, gần đây chính sách thu hút nhân tài được Bộ Nội vụ và nhiều địa phương triển khai song chưa thực sự phát huy tác dụng? Theo ông, nguyên nhân của tình trạng trên là gì và cần khắc phục như thế nào?

– Theo tôi, song song với việc thu hút, bồi dưỡng, đãi ngộ nhân tài, phải xây dựng một bộ máy trong sạch. Để làm điều này chỉ riêng Bộ Nội vụ không thể đảm đương được mà phải có quyết tâm chính trị từ cấp cao nhất. Cái gốc của việc tạo lập môi trường làm việc trong sạch, đó là phải khắc phục được tệ quan liêu, lãng phí, tham nhũng, tha hóa. Người đứng đầu phải giỏi, công tâm thì mới tập hợp được người giỏi. Đó là cái khuôn. Không bao giờ có 1 sản phẩm tròn với 1 cái khuôn méo.

Một khi bộ máy còn để xảy ra tham nhũng, quan liêu lãng phí ở mọi cấp mọi ngành thì làm sao hy vọng có thể thu hút và trọng dụng được nhân tài.

Lê Nhung

Kinh tế 2012: Thử thách quá khó

Kinh tế 2012: Thử thách quá khó
05:20 1 thg 1 2013Công khai7 Lượt xem 0

VNEPRESS

Khó khăn hiển hiện ở mọi ngóc ngách nền kinh tế, khiến hàng chục nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động, cả triệu người thất nghiệp, hàng trăm nghìn tỷ đồng nguy cơ mất trắng khi thị trường bất động sản đóng băng.

Lạm phát thấp nhất trong 3 năm

Lạm phát thấp một phần cũng do nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng giảm mạnh khi kinh tế khó khăn, thu nhập giảm. Ảnh: Anh Quân
Chỉ số giá tiêu dùng cuối năm tăng 6,81%, hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu Quốc hội đề ra, giảm mạnh so với tốc độ phi mã 18,3% của năm ngoái và thấp nhất kể từ 2009 đến nay. Ngoại trừ những lần tăng giá xăng dầu và điện, người tiêu dùng không phải hứng chịu các cú sốc giá lương thực, thực phẩm. Kết quả này có được chủ yếu nhờ các giải pháp siết tín dụng, hạn chế đầu tư công, hạ nhiệt thị trường bất động sản đưa ra từ năm ngoái.

Nền kinh tế cũng ghi nhận một số tín hiệu tích cực như lần đầu tiên xuất siêu sau 19 năm, tỷ giá cả năm ổn định, dự trữ ngoại hối tăng gấp đôi…

55.000 doanh nghiệp chết

Nhiều dự án dang dở vì thiếu vốn và không có khách là hình ảnh tiêu biểu của thị trường bất động sản Việt Nam 2012. Ảnh: Aaron Sant
Cái giá phải trả cho việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa để kiểm soát lạm phát là tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 5,03%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 6-6,5% Quốc hội đề ra. Lần đầu tiên sau gần hai thập kỷ Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu sụt giảm khi sản xuất đình đốn.

55.000 doanh nghiệp đã giải thể, ngừng hoạt động, khiến cả triệu người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Cộng cả năm 2011, con số này lên đến gần 110.000, bằng nửa số đã ngừng hoạt động kể từ khi đổi mới. Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI) nhận định đây là một trong những giai đoạn đen tối nhất của doanh nghiệp Việt Nam.

Nhiều giải pháp, đặc biệt là về thuế đã được đưa ra nhưng đến cuối năm, tình hình chưa cải thiện nhiều. Tháng 5, Chính phủ ban hành Nghị quyết 13 với gói giải pháp trị giá 29.000 tỷ đồng nhằm giãn thời gian nộp thuế VAT, giảm tiền thuê đất, tái cơ cấu nợ… Cuối tháng 12, Chính phủ tiếp tục công bố gói giải cứu mới trị giá hàng chục nghìn tỷ đồng, trong đó tập trung giảm thuế, phí, hạ lãi suất để giải phóng hàng tồn kho, xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Nợ xấu ngân hàng cao kỷ lục

Ngân hàng và doanh nghiệp đều mắc kẹt vì nợ xấu. Ảnh: Hoàng Lan.
Những khoản nợ khó đòi và có nguy cơ mất trắng chiếm 8,82% dư nợ tín dụng, tương đương gần 240.000 tỷ đồng, cao nhất từ trước tới nay. Đó là hệ lụy tất yếu của tăng trưởng nóng, đầu tư tràn lan, bất động sản bong bóng và hoạt động cho vay còn nhiều sơ hở. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước liên tục đăng đàn trước Quốc hội để giải trình nguyên nhân và đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu, một thứ được ví như cục máu đông gây ngưng trệ dòng tiền trong nền kinh tế và đe dọa hủy hoại hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp.

Phương án lập công ty mua bán nợ xấu đã trình lên Chính phủ, theo hướng mua lại các khoản nợ và xử lý thành tài sản có giá sau thời gian nhất định. Xử lý các ngân hàng yếu kém, bên cạnh mục tiêu dài hạn tái cấu trúc hệ thống, cũng là cách giúp thanh lọc nợ xấu trong ngắn hạn. 5 trong số 9 ngân hàng yếu kém đã cơ bản tái cơ cấu xong, với điểm nhấn là thương vụ sáp nhập dẫn tới sự biến mất của thương hiệu ngân hàng cổ phần lâu đời nhất thủ đô – Habubank. Những ngân hàng khỏe mạnh còn lại phải tăng cường trích lập dự phòng rủi ro, chấm dứt thời kỳ siêu lợi nhuận và đứng trước nguy cơ sa thải hàng loạt nhân sự để tự tái cơ cấu.

Một triệu tỷ đồng đọng trong bất động sản

Dư nợ tín dụng bất động sản đến cuối tháng 8 khoảng 203.000 tỷ đồng, trong đó 6,6% là nợ xấu. Nếu tính cả những khoản vay thế chấp bằng bất động sản, con số này lên đến hơn 1 triệu tỷ đồng, tương đương gần 60% lượng vốn dành cho cả nền kinh tế. Số vốn khổng lồ này nguy cơ bốc hơi theo các dự án nhà đất, khi mãi lực sụt giảm, chủ đầu tư thiếu vốn thi công. Nhiều đơn vị phải tìm cách rút lui khỏi thị trường bằng cách thoái vốn, sang nhượng, hoặc đắp chiếu dự án chờ vận may.

Bất động sản từ chỗ bị siết tín dụng, nay trở thành đối tượng cần quan tâm, giải cứu khi cả nước tồn kho hàng chục nghìn căn hộ và hàng trăm nghìn mét vuông văn phòng cho thuê. Kéo theo đó là cái chết báo trước của hàng loạt nhà thầu, doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Tháng 12, đoàn công tác Chính phủ do Thủ tướng dẫn đầu cùng các Bộ trưởng phải làm việc với TP HCM và Hà Nội để tìm giải pháp xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho bất động sản. Một số đề xuất đang được các bộ ngành cân nhắc như giảm thuế VAT cho người mua nhà, giảm giãn tiền thuê đất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp…

Lãnh đạo một loạt doanh nghiệp bị bắt

Bầu Kiên ngày còn nhiều uy lực trên thị trường tài chính cũng như sân cỏ. Ảnh: Hoàng Hà
Nguyên Chủ tịch Tổng công ty Hàng hải Việt Nam Vinalines – Dương Chí Dũng bị khởi tố giữa tháng 5, mở đầu cho một loạt vụ án kinh tế quy mô hàng nghìn tỷ đồng được thụ lý trong năm. Ông Dũng bị khởi tố vì cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế, tội danh không khác nhiều đồng nghiệp cũ – nguyên Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt Nam Phạm Thanh Bình. Cuối tháng 8, đến lượt các nguyên lãnh đạo Ngân hàng cổ phần Á Châu (ACB) bị bắt như Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải vì liên quan tới vụ lừa đảo hàng nghìn tỷ đồng của nữ đại gia chứng khoán Huỳnh Thị Huyền Như. Một loạt cựu lãnh đạo của các công ty Chứng khoán SME, Chứng khoán Liên Việt, Chứng khoán Cao su… cũng lần lượt bị bắt và khởi tố.

Nếu như câu chuyện Vinalines bộc lộ lỗ hổng trong quản lý vốn tại các tập đoàn nhà nước thì vụ án bầu Kiên và các đồng phạm lại cho thấy những khuyết tật của thị trường khi thiếu bàn tay kiểm soát. Ông Dũng cùng các đồng phạm góp công làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước qua những quyết định đầu tư tràn lan, mua sắm tài sản không đúng quy định. Thiệt hại trực tiếp do bầu Kiên và các đồng phạm gây ra chỉ vài trăm tỷ đồng, nhưng hậu quả để lại cho thị trường tài chính tiền tệ lớn hơn thế rất nhiều lần. Tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán sau ba phiên bầu Kiên bị bắt giảm hơn 80.000 tỷ đồng.

Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động

Thủy điện Sơn La về đích sớm hơn kế hoạch 3 năm. Ảnh: Kiên Trung
Ngày 23/12, nhà máy Sơn La chính thức hòa lưới quốc gia, sau 37 năm khảo sát, xây dựng với nhiều tranh cãi, lo ngại về tính an toàn của đập thủy điện cũng như ảnh hưởng tới môi sinh. Với vốn đầu tư hơn 60.000 tỷ đồng, Sơn La để lại nhiều dấu ấn kỷ lục về hồ chứa nước lớn nhất, công trình to nhất, hoàn thành kế hoạch sớm nhất. Nhờ vận hành sớm 3 năm so với dự kiến, mỗi năm Sơn La tạo ra doanh thu 500 triệu USD, tiết kiệm hơn 5 triệu tấn than để sản xuất ra lượng điện năng tương đương. Công suất 2.400 MW một năm, công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam Á cũng được kỳ vọng giúp tránh cảnh thiếu điện trong năm đáp ứng đủ nhu cầu điện 2013.

Chủ đầu tư và một số chuyên gia khẳng định, Sơn La sẽ không lặp lại kịch bản động đất của Sông Tranh 2, bởi đã được đầu tư hệ thống quan trắc từ trước.

Nhà nước độc quyền vàng miếng

Ngân hàng Nhà nước quyết đưa vàng vào khuôn khổ bằng một loạt biện pháp, trong đó tiêu biểu là độc quyền sản xuất vàng SJC. Các thương hiệu khác vẫn lưu hành nhưng không tiếp tục sản xuất. Ảnh: AQ
Ngày 25/5, Nghị định về Quản lý hoạt động kinh doanh vàng bắt đầu có hiệu lực, đưa thị trường vàng miếng vào tầm kiểm soát. Từ chỗ có trên dưới 10 đơn vị gia công, dập đúc và hàng nghìn điểm kinh doanh tự phát, giờ đây chỉ Ngân hàng Nhà nước mới có quyền sản xuất vàng miếng. SJC trở thành vàng miếng thương hiệu quốc gia do Ngân hàng Nhà nước quản lý, các thương hiệu khác tiếp tục được lưu hành nhưng không sản xuất thêm. Tất cả các cửa hàng nếu muốn tiếp tục kinh doanh vàng miếng phải đăng ký lại với điều kiện khắt khe về năng lực tài chính và quy mô hoạt động.

Một trong những cái được của độc quyền vàng miếng, theo đánh giá của chính Ngân hàng Nhà nước, là biến động giá vàng không còn ảnh hưởng đến tỷ giá, đời sống xã hội. Thị trường cũng được hy vọng sẽ bình yên hơn khi

các ngân hàng bị rút quyền huy động và cho vay vốn bằng vàng. Nhưng hệ lụy trước mắt là người dân phải mua vàng đắt hơn thế giới hàng triệu đồng mỗi lượng. Nạn vàng nhái thương hiệu, kém chất lượng cũng theo nhau bùng phát.
VnExpress

53 người
Tweet

Phạm Ngọc Thảo – Oanh liệt trong thầm lặng

Phạm Ngọc Thảo – Oanh liệt trong thầm lặng
01:28 28 thg 12 2012Công khai20 Lượt xem 0

(Xưa này chưa “khoái” nhà báo Hoàng Hải Vân lắm nhưng loạt bài này của ông làm mình thích. Cám ơn GS Trần Hữu Dũng đã cất công tổng hợp lại để dễ theo dõi và xin ông cho copy lại ở đây. Xin cám ơn!)

Đăng trên báo Thanh Niên
từ ngày 20/12/2012 đến 26/12/2012
Hoàng Hải Vân

1. Những giọt nước mắt của ông Mười Hương

20/12/2012 3:20
“Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” (Lời tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền)

Tấm hình đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội Sài Gòn lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ.

Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết.

Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn – nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván bài lật ngửa vốn là một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh.

Mãi đến ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa bao giờ được công bố chính thức.

Sau năm 1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm?

Đại tá quân đội Sài Gòn Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965
lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh – Ảnh: Chin Kah Chong

Không thể đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng” nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay của ta, mà do may mắn.

Sinh thời cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Phạm Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với ông Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo kiệt xuất, là người anh hùng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách.

Còn ông Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ và phong anh hùng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ T.Ư – TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.

Sự lo xa của ông Mười Hương là tình nghĩa rất đáng trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công khai. Quốc gia đại sự không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì cái tình mà có quốc gia đại sự.

Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”. Ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với ông Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy (sau này là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Hai người khác trong Ban cùng có mặt là ông Mười Hương và ông Cao Đăng Chiếm (sau này là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ).

Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng ông Mai Chí Thọ là người lừng lẫy nên có quá nhiều người biết, ông Cao Đăng Chiếm cũng vậy, Đảng không cho phép vào sống ở Sài Gòn, chỉ có ông Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, ông Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về đường hướng, phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó ông Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.

2. Gia thế

21/12/2012 3:55
Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ”, đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” đi tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến?

Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch Pháp nên sang Pháp du học, đều trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư.

Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”, dù có cuộc sống giàu sang nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất nước, đều khát khao giành độc lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch từ năm 1943, sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một người anh khác, ông Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam…

Phạm Ngọc Thảo trên tạp chí Life

Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14.2.1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông không sang Pháp mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Theo chân người anh, ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lên đường cầm súng đi kháng chiến.

Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ” (theo nhiều tài liệu thì gia đình Phạm Ngọc Thảo có tới hơn 4.000 mẫu đất và hàng ngàn bất động sản ở Nam bộ), đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến?

Sự “đồng loạt” hiếm có đó là từ chính nghĩa của cách mạng, là từ truyền thống yêu nước của gia đình, xuất phát từ người ông của Phạm Ngọc Thảo. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là cụ Phạm Ngọc Lành (cụ Lành có thể có nhiều tên khác), là một thương gia lớn ở Nam bộ thời Pháp thuộc. Sau này cho con cháu gia nhập quốc tịch Pháp để “tự vệ”, song cụ Lành sinh thời không những không dính dáng gì với người Pháp mà còn tích cực ủng hộ, hậu thuẫn cho các phong trào yêu nước chống Pháp từ trước khi có cách mạng. Ngay cả phong trào Cần Vương ở tận miền Trung cũng được cụ Lành gửi tiền của hậu thuẫn. Nhiều bậc tiền bối của cách mạng ở Nam bộ đã dựa vào gia đình này để nhen nhóm phong trào và khi cách mạng nổ ra, gia đình này đã nhẹ nhàng đem hết gia sản và con cái ra cống hiến.

Thực ra, khi đất nước bị chia cắt thì một gia đình bị phân hóa cũng là bình thường, mặt khác, sau này anh em ông Ngô Đình Diệm đã trọng dụng Phạm Ngọc Thảo, không chỉ vì ông Thảo có tài năng, có tư cách. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến chắc chắn không “mù”, họ biết rất rõ những người anh của Phạm Ngọc Thảo đang ở “phía bên kia”. Sau khi lên cầm quyền ở miền Nam, Ngô Đình Diệm thực hiện khẩu hiệu “phản đế, bài phong” để xây dựng chế độ quốc gia “cạnh tranh” với những người cộng sản, nhưng điều mỉa mai là hầu hết các tướng lãnh, sĩ quan và quan chức cao cấp chính quyền của họ đều là sản phẩm do người Pháp để lại. Anh em họ Ngô rất cần có những trí thức từng tham gia chống Pháp ở bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn của những gia đình có truyền thống yêu nước như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp trên của ông không bao giờ đánh giá thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp đối phương thì không thể có được “ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã biết. Nhưng đó là chuyện sau này.

Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng). Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em gái Giáo sư Phạm Thiều lúc đó là Giám đốc Nha Giáo dục phổ thông Nam bộ, sau khi tập kết ra Bắc làm Đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại một số nước Đông Âu).

Năm 1946 cũng là năm ông Lê Duẩn được Trung ương cử vào Nam làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào miền Nam, giữa sự vây ráp ráo riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực tiếp hộ vệ đưa ông Lê Duẩn từ Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến miền Nam Việt Nam về chiến trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến. Bản lĩnh, tài năng, mưu trí và phẩm chất của Phạm Ngọc Thảo trên chiến trường đã chinh phục niềm tin của vị Bí thư Xứ ủy. Cuộc hạnh ngộ này ảnh hưởng quyết định đến sứ mệnh sau này của ông. Dùng một trí thức con nhà Công giáo đại địa chủ làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, thậm chí làm tướng cũng không có vấn đề gì, nhưng làm Trưởng phòng Mật vụ của cả Nam bộ kháng chiến thì, trừ ông Lê Duẩn, không ai dám và điều này thì quả thật, ông Lê Duẩn có con mắt anh hùng đoán giữa trần ai. Trong những lúc nói chuyện với chúng tôi, ông Võ Văn Kiệt trước sau đều khâm phục tầm nhìn chiến lược và sự trông xa thấy rộng của ông Lê Duẩn và ông cũng nhớ lại: “Không ít anh em cũng lo ngại về cách dùng người như vậy của anh Ba”.

Điều đáng chú ý là những nhân vật như Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim… cũng có vào chiến khu tham gia kháng chiến trong thời gian đầu và họ đều được Phạm Ngọc Thảo huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng họ đã quay lưng theo Pháp và trở thành những tướng lãnh quân đội Sài Gòn. “Những người quen cũ” đó sau này vừa nể phục Phạm Ngọc Thảo vừa coi ông là một đối thủ đáng gờm.

3. Lật ngửa bài để tàng hình

22/12/2012 2:49
Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình.

“Phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước” là làm nhiệm vụ cụ thể gì, không ai rõ chi tiết. Ông Mai Chí Thọ xác nhận việc ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo cho ông để bố trí ở lại miền Nam hoạt động, nhưng ông bảo ông chỉ nhận được chỉ thị về nhiệm vụ của ông đối với Phạm Ngọc Thảo thôi, còn ông Lê Duẩn chỉ thị cho Phạm Ngọc Thảo làm những việc gì thì ông không được thông báo.

Còn ông Võ Văn Kiệt, ban đầu không liên quan đến Phạm Ngọc Thảo, ông chỉ biết ông Lê Duẩn đã trọng dụng ông Thảo như thế nào mà thôi. Nhưng sau Hiệp định Genève, có một thời gian ông Lê Duẩn vào sống ngay trong thành phố Sài Gòn, ông Kiệt có nhiệm vụ tổ chức nơi ăn ở và bảo vệ an toàn, ông dần dần hiểu được những việc mà ông Lê Duẩn giao cho Phạm Ngọc Thảo. Khi làm Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định, ông Võ Văn Kiệt mới “liên quan” đến Phạm Ngọc Thảo. Ban đầu ông định cử ông Mười Nho, Trưởng ban Đặc tình Đặc khu ủy, liên lạc với Phạm Ngọc Thảo, nhưng xét thấy ông Mười Nho đã từng bị lộ tung tích, nên kế hoạch bị hủy bỏ. Ông Kiệt gặp ông Thảo nhiều lần, từ sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đến sau cuộc đảo chính 19.2.1965.

Theo ông Võ Văn Kiệt, nhiệm vụ mà ông Lê Duẩn giao cho ông Thảo là tìm cách thâm nhập càng sâu càng tốt vào bộ máy chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến; ông Thảo không phải là một điệp viên, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai, khi có việc cần thiết có thể trao đổi với người lãnh đạo nào mà ông Thảo thấy đủ tin tưởng, nếu không thấy cần thiết thì không trao đổi. Ông Thảo hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào. Việc ông Kiệt gặp ông Thảo là do chính ông Thảo chủ động cho người thân liên lạc để bàn bạc giải pháp, ông Kiệt không có “chỉ thị” ông Thảo phải gặp ông.

Sau khi thống nhất đường hướng, phương thức hoạt động với ông Mười Hương, Phạm Ngọc Thảo vào Sài Gòn, bắt đầu tàng hình bằng một “ván bài lật ngửa”.

Theo ông Mười Hương, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám “ngửa bài”. Ông Mười Hương cho rằng, thực tế Ngô Đình Diệm luôn mơ ước có những trí thức yêu nước có tầm cỡ bên cạnh mình, như cụ Hồ có những người như ông Hoàng Minh Giám bên cạnh. Cần biết Ngô Đình Diệm nổi tiếng chống cộng, nhưng Ngô Đình Diệm trong thâm tâm bao giờ cũng nể phục cụ Hồ và chưa bao giờ dám xúc phạm đến cụ Hồ.

Phạm Ngọc Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình. Ngược lại, ông không những chủ động công khai cái lý lịch kháng chiến đó mà còn công khai tự hào về quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Để tiếp cận với gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức Công giáo đã đành là một lợi thế, nhưng chưa đủ. Ông đã khôn ngoan biến cái lý lịch kháng chiến thành một lợi thế thứ hai, lợi hại hơn.

Khi về Sài Gòn, sau khi thu xếp nơi ăn chốn ở cho gia đình, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà ung dung đi dạy học. Vợ ông cũng vậy. Nhưng Sài Gòn lúc đó rất rối ren. Chính quyền một mặt phải đối phó với lực lượng của các giáo phái và các lực lượng thân Pháp, một mặt ráo riết lùng bắt những cán bộ Việt Minh không đi tập kết nhưng không “hồi chánh” để trừ hậu họa. Phạm Ngọc Thảo không “hồi chánh” nên tất nhiên không có giấy tờ “hồi chánh”, ông bị an ninh quân đội nhiều lần truy bắt, phải rất khôn ngoan ông mới trốn thoát.

Phạm Ngọc Thảo nói chuyện với các chức sắc Cao Đài – Ảnh: LIFE

Không thể ung dung ở Sài Gòn được nữa, ông về Vĩnh Long theo dự định ban đầu. Theo kế hoạch, việc đầu tiên ông làm là đến thăm Giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Đức cha Thục rất thân thiết với gia đình Phạm Ngọc Thảo, từng là người làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Đức cha vào chiến khu để thông qua vị giám mục này mà tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Lần này Phạm Ngọc Thảo đến thăm với sự lễ phép của một tín đồ ngoan đạo khiến vị giám mục vô cùng cảm động. Ngô Đình Thục đã bảo lãnh cho Phạm Ngọc Thảo vào dạy tại một trường trung học. Sau đó cũng từ sự giới thiệu của Đức cha Thục, Phạm Ngọc Thảo quay lại Sài Gòn làm việc tại Viện Hối đoái do ông Huỳnh Văn Lang, một học trò cũ của Đức cha Thục, làm Giám đốc. Trở lại Sài Gòn lần này ông hoàn toàn không bị an ninh quân đội làm khó dễ, vì ai mà dám động đến người của Đức cha!

Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống, Giám mục Ngô Đình Thục liền tiến cử ông Thảo với Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, bảo đây là một nhân tài cần được trọng dụng. Gia đình họ Ngô anh nói em nghe, rất có khuôn phép, nên đương nhiên Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận sự tiến cử này. Tuy nhiên, do chưa thấy ông Thảo có tài năng gì đặc biệt, nên họ cũng chỉ bố trí cho ông những chức vụ khiêm tốn: đại úy đồng hóa, Tỉnh đoàn trưởng Bảo an…

Mối quan hệ với Huỳnh Văn Lang tạo thêm cho Phạm Ngọc Thảo một lợi thế: viết báo để thể hiện mình. Năm 1957, ông Huỳnh Văn Lang khi ấy là Giám đốc Viện Hối đoái và là Bí thư liên kỳ Nam Bắc Việt Nam của Đảng Cần Lao, đã cho xuất bản Tạp chí Bách Khoa. Phạm Ngọc Thảo được mời làm một thành viên sáng lập và tham gia Ban Biên tập tạp chí. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975. Phạm Ngọc Thảo có mặt từ số báo đầu tiên và chỉ tính riêng trong năm 1957-1958, ông đã cho đăng liên tục và dồn dập hàng loạt bài trên tạp chí này, tập trung đề tài về quân sự: “Thế nào là một quân đội mạnh?” (BK số 1-1957); “Đánh giặc mà không giết người” (BK số 2); “Góp ý kiến về thiên Mưu công trong binh pháp Tôn Tử” (BK số 3); “Một số ý kiến về lãnh đạo tinh thần một đơn vị quân đội” (BK số 4); “Vấn đề kinh tế tự túc trong quân đội” (BK số 5-6)…; “Lực lượng quân sự cơ động và lực lượng địa phương” (BK số 13); “Quân đội và nhân dân” (BK số 14); “Quân đội bình định đem lại bình an hay oán hận” (BK số 16); “Quan niệm về quân sự hiện đại” (BK số 17)… Những bài báo đó thể hiện tác giả của chúng có kiến thức uyên bác của một nhà chiến lược quân sự và thực tiễn sinh động của một nhà cầm quân, nhưng lại gây sốc: công khai ca ngợi chiến công chống ngoại xâm và hành động vì dân vì nước của quân đội nhân dân VN trong kháng chiến chống Pháp, lên án những hành vi phi nghĩa của quân đội phản nhân dân.

4. Luận về quân tử – tiểu nhân

23/12/2012 3:50

Phạm Ngọc Thảo (phải) lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa – Ảnh: LIFE

Những bài báo “gây sốc” của Phạm Ngọc Thảo đã tạo một tiếng vang lớn. Chúng được giới quân sự, chính trị ở Sài Gòn cũng như các chuyên gia CIA và tình báo nước ngoài rất quan tâm. Họ “soi” rất kỹ để biết Phạm Ngọc Thảo là ai. Ngay cả cấp trên của ông Thảo cũng hồi hộp lo lắng về nước cờ cao nhưng liều lĩnh của ông.

Nước cờ cao này sẽ khiến cho những kẻ chống cộng tầm thường nghĩ ông là cộng sản nằm vùng, dù bọn họ là số đông, nhưng ông không quan tâm, họ không phải là đối tượng để ông gửi thông điệp. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo muốn gửi tới là Ngô Đình Nhu và bộ tham mưu cao cờ của ông Nhu, đặc biệt là Trần Kim Tuyến.

Quả nhiên những bài báo đó không lọt khỏi “mắt xanh” của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến. Đây chính là thứ mà họ Ngô cần. Muốn xây dựng một quân đội thực sự là “quân đội quốc gia” thì không thể không dựa trên lý luận quân sự được trình bày trong những bài báo của Phạm Ngọc Thảo. Thông điệp mà Phạm Ngọc Thảo gửi tới phù hợp với đường lối chiến lược của anh em họ Ngô: Muốn chiến thắng cộng sản, muốn xây dựng một quân đội, một chế độ độc lập thì phải làm theo cách của Việt Minh. Lịch sử “Đệ nhất cộng hòa” sau này cho thấy, họ Ngô tuy nhận viện trợ của Mỹ nhưng không nghe lời Mỹ, không để người Mỹ can thiệp quá sâu vào chế độ, vì vậy mà bị Mỹ đạo diễn lật đổ.

Và Phạm Ngọc Thảo bắt đầu được trọng dụng. Ông gia nhập đảng Cần Lao và được đưa vào Ban Tuyên huấn đảng này, được thăng quân hàm thiếu tá, rút về làm việc tại Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội (cơ quan mật vụ Phủ Tổng thống) do Trần Kim Tuyến làm giám đốc, văn phòng ông nằm ở cánh trái Phủ Tổng thống, bên cạnh Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu.

Việc Phạm Ngọc Thảo được trọng dụng khiến cho không ít nhân vật cao cấp trong chính quyền tức tối. Tướng Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh quân đội, không những nghi ngờ mà còn quả quyết cho rằng Phạm Ngọc Thảo chính là cộng sản, rằng “cộng sản đang lũng đoạn Phủ Tổng thống”. Sau này ông ta nói với các thuộc cấp: “Mỗi lần vào Dinh Độc lập, tôi thấy cánh trái của dinh ửng lên đỏ loét”. Những báo cáo về Phạm Ngọc Thảo của các cơ quan an ninh, cảnh sát đều bị bỏ ngoài tai. Ông Diệm, ông Nhu có cái lý của mình, hạng như Mai Hữu Xuân thì biết gì!

Tuy nhiên, trong khi Ngô Đình Diệm hoàn toàn tin tưởng Phạm Ngọc Thảo, thì Ngô Đình Nhu vốn là một con cáo già về chính trị, nên dù trọng dụng ông song chưa phải là hoàn toàn tin tưởng. Một lần, ông Nhu rủ ông Thảo đi chơi bằng ca nô trên sông Cửu Long, ông Nhu đột ngột hỏi: “Nhiều cán bộ Việt Minh sau Hiệp định Genève về làm việc cho quốc gia, họ chỉ cho quốc gia bắt được nhiều cán bộ cộng sản nằm vùng quan trọng. Anh Thảo về làm việc cho quốc gia được một thời gian rồi, sao chưa thấy anh Thảo chỉ bắt được ai?”. Câu hỏi thật hắc búa, nhưng Phạm Ngọc Thảo không hề lúng túng. Ông bình thản nói: “Trước đây đi kháng chiến tôi hợp tác với người cộng sản dưới ngọn cờ Việt Minh đánh Tây để giải phóng Tổ quốc. Nay đất nước chia đôi, miền Bắc giao cho cộng sản, miền Nam giao cho quốc gia. Tổng thống và anh Nhu là người quốc gia yêu nước, muốn kiến thiết lại xứ sở sau bao nhiêu năm bị chiến tranh tàn phá, nên tôi đem hết sức lực làm việc cho tổng thống. Tôi nghĩ tổng thống và anh Nhu là những người quân tử, dùng người theo cách của người quân tử. Nếu tôi chỉ cho chính quyền bắt những đồng đội cũ của tôi, thì tôi là kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ. Liệu những người quân tử như tổng thống và anh có thể trọng dụng được kẻ tiểu nhân đáng khinh bỉ như vậy không?”. Ngô Đình Nhu đuối lý nhưng rất thích câu trả lời đó, bảo chỉ hỏi đùa vậy thôi và xin lỗi ông Thảo.

Tại các cuộc họp của đảng Cần Lao, trong khi những người khác chỉ nói theo, không ai dám làm trái ý Ngô Đình Nhu thì Phạm Ngọc Thảo lại rất thẳng thắn. Sự thẳng thắn đó làm Ngô Đình Nhu rất hài lòng. Một lần ra hành lang cuộc họp, Ngô Đình Nhu nói với những người thân cận về Phạm Ngọc Thảo: “Thằng này đúng là thằng dân tộc chủ nghĩa đậm chất Nam bộ”, lời nhận xét đó được một cơ sở của ta nghe được và nói lại với ông Mười Hương.

Phạm Ngọc Thảo còn phản đối những hành vi vô nhân đạo trong chính sách tố cộng của Ngô Đình Diệm. Họ Ngô đề cao chính sách thân dân mà hành xử thì lê máy chém sát hại người yêu nước. Ông nói với Đức cha Thục rằng việc chống cộng kiểu này là thua cộng sản, rằng chống cộng càng tàn bạo bao nhiêu càng khiến cho dân chúng thấy Việt Minh nhân ái hơn bấy nhiêu. Ngô Đình Thục tán đồng ý kiến này và thuật lại với Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm thấy có lý. Đó là một trong những lý do Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) vào đầu năm 1961, nơi đang diễn ra cuộc Đồng khởi lịch sử. Lúc này ông được thăng hàm trung tá. Nhiều người cho rằng vì họ Ngô còn nghi kỵ Phạm Ngọc Thảo nên mới đưa ông đến Kiến Hòa là để thử thách lòng trung thành, nhưng theo chúng tôi thì không thể như vậy, không người cầm quyền nào đem sự thành bại của chế độ ra mà thử thách thuộc hạ. Ngô Đình Diệm muốn Phạm Ngọc Thảo áp dụng chính sách “thân dân” của ông ngay trong vùng nước sôi lửa bỏng.

Về làm tỉnh trưởng một thời gian, ông Thảo thả hơn 2.000 tù chính trị, trong đó có ông Võ Viết Thanh (sau này là Chủ tịch UBND TP.HCM), nói là thực hiện chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, bất chấp những lời tố cáo ông liên tục gửi về Sài Gòn. Theo tài liệu ghi chép lại của ông Sáu Trí, Trưởng ty Công an Kiến Hòa lúc đó đã báo cáo với thiếu tướng Nguyễn Văn Là, Tổng giám đốc Công an cảnh sát như sau: “Ông tỉnh trưởng này khả nghi quá. Những cuộc hành quân bố ráp của ngành an ninh trong vùng cộng sản mới chiếm đã bắt nhiều người đem về để rà soát tìm những tên đầu sỏ nhằm tiêu diệt lực lượng cộng sản từ cơ sở, nhưng chúng tôi chưa kịp thẩm vấn ai, chưa kịp làm gì thì ổng cho thả gần như 99%. Không cơ quan an ninh nào muốn làm việc nữa. Nếu hành quân đem về buổi chiều, ổng bảo đem số người bị bắt vào dinh ổng nghỉ tạm, mấy bà già và phụ nữ lớn tuổi ổng đem lên lầu ở, số còn lại ở bên dưới. Ban đêm nấu cháo gà đãi, sáng ra ông cho tập hợp lại, đến nói chuyện chính trị, tuyên truyền chính sách thân dân của Ngô Tổng thống, xong rồi cho thả về hết, có người còn được cấp tiền xe…”. Thiếu tướng Là cắt ngang, ngao ngán: “Tổng thống khen Phạm Ngọc Thảo hết lời, bảo tỉnh trưởng các tỉnh toàn quốc đến Kiến Hòa học cách làm của trung tá Thảo”.

5. Bị cách mạng ám sát

24/12/2012 0:15
Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ…

Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng, tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này, khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại.

Chúng tôi đã gặp một trong hai người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh – truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn Thiều đã qua đời.

Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.

Ông Sáu Tuấn kể: “Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì cái cặp da có dấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi giam chung mới thống nhất lại

Phạm Ngọc Thảo lúc làm tỉnh trưởng Kiến Hoà (Ảnh báo Life)

Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa.

Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: “Tụi tôi không phải là Việt cộng, nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia”. Hai ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18 tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: “18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam cộng hòa xử 13 tuổi”. Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng.

Ông Đặng Quốc Tuấn (Ảnh Nguyễn Khoa Chiến)

Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về.

Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: “Có phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?”. Trả lời: “Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi nổ”. Hỏi: “Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?”. Trả lời: “Mãi sau này mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”.

Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: “Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”. Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe đâu ở An Giang.

6. Suýt làm Thủ tướng Việt Nam cộng hòa

25/12/2012 4:05
“Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi” – lời ông Nguyễn Cao Kỳ nói với Thanh Niên.

Năm 1962, sau khi thôi làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa, sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Thời gian này mối quan hệ giữa ông với ông Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang càng thân thiết. Với sức thuyết phục mạnh mẽ của một nhà quân sự vừa có trình độ, vừa chân thành vốn có, ông được nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc ngưỡng mộ.

Phạm Ngọc Thảo (giữa) chỉ huy đảo chánh
(Ảnh báo LIFE)

Trong những năm 1962 – 1963, giữa lúc phong trào Đồng khởi lan rộng ở nông thôn, chính trường miền Nam Việt Nam trở nên rối ren. Gia đình họ Ngô vừa cai trị độc tài, vừa muốn thoát khỏi sự can thiệp của người Mỹ, tình hình này khiến cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở đô thị dâng cao. Người Mỹ thì muốn gạt bỏ gia đình họ Ngô để thay vào đó giới lãnh đạo thân Mỹ nhằm biến miền Nam thực sự là một tiền đồn chống cộng. Biết trước sau gì gia đình họ Ngô cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin ông Thảo phản bội, thứ hai là ông Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó ông Thảo đã được nhiều sĩ quan chỉ huy ở Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, một số đơn vị biệt động quân, bảo an hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.

Và như chúng ta đã biết, ngày 1.11.1963, một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh, đã tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh em ông Diệm, ông Nhu bị chết thảm. “Hội đồng quân nhân cách mạng” (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này, vẫn được HĐQNCM cử làm tùy viên báo chí, sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. HĐQNCM cầm quyền được 2 tháng, đã bị tướng Nguyễn Khánh và tướng Trần Thiện Khiêm 2 lần “chỉnh lý”, thâu tóm mọi quyền lực.

Lên cầm quyền, Nguyễn Khánh rút Phạm Ngọc Thảo về nước, cử làm giám đốc báo chí, phát ngôn viên chính phủ, lúc này ông đã được thăng đại tá. Mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh trong giới cầm quyền ngày càng gay gắt, Nguyễn Khánh tiếp tục loại Trần Thiện Khiêm, đưa ông tướng này đi làm đại sứ tại Mỹ. Phạm Ngọc Thảo cũng được đưa sang Mỹ làm tùy viên văn hóa, quân sự vào đầu tháng 10.1964. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy nhiên, sau đó do nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo, nên cuối năm 1964, Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng giờ bay dự định nên thoát. Có mặt ở Sài Gòn, ông bí mật móc nối tổ chức lực lượng, kéo tướng Lâm Văn Phát và hàng chục sĩ quan khác tiến hành cuộc đảo chính ngày 19.2.1965.

Điều kỳ lạ là lúc đó Phạm Ngọc Thảo, tuy là đại tá nhưng không cầm quân và đang bị Nguyễn Khánh truy bắt, lại có thể tổ chức và chỉ huy một lực lượng không dưới một sư đoàn làm binh biến (gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh). Cuộc binh biến do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu về danh nghĩa, còn thực tế do Phạm Ngọc Thảo tổ chức và chỉ huy, sau này người ta gọi ông là “Tư lệnh hành quân 19.2”.

Chỉ trong 1 ngày, lực lượng đảo chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng tiếc là do một số sơ sót trong hợp đồng tác chiến, Nguyễn Khánh đã được Tư lệnh Không quân lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát.

Chúng tôi có dịp gặp ông Nguyễn Cao Kỳ năm 2008. Hỏi về sự kiện này, ông Nguyễn Cao Kỳ nói: “Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi”. Ngẫm nghĩ một hồi, ông Kỳ nhớ lại: “Cuộc đảo chính diễn ra bất ngờ đến mức tôi không kịp mặc áo, chỉ mặc may ô chui hàng rào thép gai ra lấy máy bay chạy về Biên Hòa. Sau đó ông Thảo lên Biên Hòa gặp tôi, cùng đi có một đại tá Mỹ. Ổng thuyết phục tôi ủng hộ quân đảo chính. Nói thật là tôi không ưa gì Nguyễn Khánh, nhưng quân đội đánh nhau tôi không đồng ý. Tôi bảo các anh phải cho quân về ngay doanh trại, đến 5 giờ chiều mà không rút quân tôi sẽ cho máy bay ném bom”. Đó là lý do khiến cuộc đảo chính thất bại.

Tuy nhiên, Nguyễn Khánh cũng bị loại. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn của người Mỹ đã lựa gió phất cờ, họp Hội đồng tướng lãnh buộc Nguyễn Khánh từ chức và trục xuất ông này ra nước ngoài với danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính, ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát cùng 13 sĩ quan “đầu sỏ” tham gia đảo chính trong vòng 24 giờ phải ra trình diện. Phạm Ngọc Thảo, tướng Lâm Văn Phát, trung tá Lê Hoàng Thao (Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.

Tháng 6.1965, Hội đồng tướng lĩnh giải tán chính phủ dân sự của Phan Huy Quát, đưa tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng). Chính quyền Thiệu – Kỳ lập tòa án quân sự để xử những người tham gia đảo chính. Phạm Ngọc Thảo bị kết án tử hình vắng mặt, chúng treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt được ông.

Lúc này tuy ông phải lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông liên lạc với ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt gặp ông và gợi ý ông ra chiến khu cho an toàn, có thể dẫn theo tiểu đoàn này với danh nghĩa binh biến ly khai. Tuy nhiên, ông cho biết ông vẫn còn có khả năng tổ chức đảo chính để ngăn chặn chính quyền quân phiệt rước quân viễn chinh Mỹ vào gây tội ác. Ông Võ Văn Kiệt đồng ý.

Phạm Ngọc Thảo tiếp tục hoạt động bí mật ở Sài Gòn, cho xuất bản tờ “Việt Tiến” để tập hợp lực lượng. Ông được các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài quân đội giúp đỡ, bảo vệ.

Còn Nguyễn Văn Thiệu, sau khi lên nắm chính quyền, thấy rõ Phạm Ngọc Thảo là mối đe dọa nguy hiểm đến vị trí quyền lực của mình, nên quyết tìm mọi cách tiêu diệt ông để trừ hậu họa

7. Cái chết bi thảm và sứ mệnh hoàn hảo

26/12/2012 0:25
“Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo” – linh mục Nguyễn Quang Lãm.

Chúng tôi hỏi ông Nguyễn Cao Kỳ: “Ai đã giết Phạm Ngọc Thảo?”. Ông Kỳ: “Sau lần tiếp xúc ở Biên Hòa, tôi không gặp Phạm Ngọc Thảo nữa và không quan tâm đến chuyện của ông ấy”. Hỏi: “Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Ông Kỳ: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.

“Mọi quyết định đều do ông Thiệu”, ông Kỳ nói đúng. Nhưng ông Kỳ nói ông không quan tâm đến ông Thảo thì chưa chắc đúng.

Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ bút Báo Xây Dựng, là người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo. Ông không những che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo mọi lúc mọi nơi, mà còn đăng công khai trên báo chí những điều tốt đẹp nhất về Phạm Ngọc Thảo, dù ai có nói ông Thảo là cộng sản ông cũng mặc kệ. Sau khi ông Thảo bị giết hại, Báo Xây Dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo.

Theo cha Lãm thì: “Đại tá Phạm Ngọc Thảo là người can đảm, một kẻ dám làm một cái gì, một người có những tư tưởng lạ, những tư tưởng lớn về chuyện Đất Nước”. Ông nghĩ vậy và ông nghĩ rằng ông Nguyễn Cao Kỳ cũng có thể nghĩ như ông, vì ông biết ông Kỳ rất muốn gặp Phạm Ngọc Thảo sau cuộc đảo chính. Cha Lãm muốn đưa ông Thảo đến trại Phi Long (căn cứ không quân) gặp Nguyễn Cao Kỳ, nhưng vì mỗi lần gặp ông Kỳ cứ nhắc đi nhắc lại “Anh ta đâu?” một cách sốt sắng, nên vị linh mục đâm ra cảnh giác: “Nhỡ ra tướng Kỳ nổi hứng hay nổi đóa giữ Phạm Ngọc Thảo lại nộp cho cơ quan an ninh thì sao?”. Vì vậy, thay vì đưa ông Thảo đến, cha Lãm đến gặp ông Kỳ đề nghị đưa ông Kỳ đến gặp ông Thảo tại một địa điểm bí mật với điều kiện: đi một mình, không cho cận vệ đi kèm, không dắt súng lục, không nhấc điện thoại gọi về nhà dù chỉ bảo “Hôm nay không về ăn cơm nhà”. Hôm đó ông Kỳ “OK” nhưng bảo “đang bận hôm nay không đi được”. Cha Lãm thuật lại chuyện này với Phạm Ngọc Thảo, nhưng ông Thảo bảo cha không cần thận trọng như thế, rằng ông có thể đến trại Phi Long gặp ông Kỳ được, rằng “mời ông ta ra chỉ cho thấy mình yếu bóng vía và không tin cậy ông ta”. Hai hôm sau, cha Lãm tới nơi ông Thảo lánh nạn (tại một cao ốc trên đường Ngô Đức Kế) để đưa ông Thảo vào trại Phi Long thì ông Thảo đã rời khỏi chỗ này rồi, do bị lộ, an ninh đến lục xét. Một tuần sau, cha Lãm mới hết lo lắng khi ông Thảo nhắn cha lên Biên Hòa và cho biết mình đang ở chỗ xứ cha Cường. Vị linh mục kể lại chuyện này kèm theo những lời trìu mến: “Chỉ tội ở đó không có điện thoại để con người làm cách mạng đó móc nối liên lạc với các đồng chí và lúc buồn buồn có thể nói được dăm ba câu với một vài người đẹp”. Nhưng 3 tuần sau, ngày 17.7.1965, cha Lãm nhận được điện thoại của một ký giả làm cho một hãng thông tấn ngoại quốc báo tin ông Thảo đã bị giết rồi.

Tài liệu chính thức của ta hiện nay đều nói về cái chết của Phạm Ngọc Thảo: Ông bị an ninh chính quyền Sài Gòn bắt đem đi thủ tiêu vào ngày 15.7 nhưng ông chỉ bị thương nặng, được các linh mục và nữ tu đem về một tu viện chăm sóc, sau đó nhà cầm quyền truy lùng tung tích và bắt ông đưa về cơ quan an ninh quân đội vào ngày 16.7. Tại đây, Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ đã tra tấn và bóp hạ bộ ông cho đến chết ngay trong đêm hôm đó. Báo chí và dư luận ở Sài Gòn trước giải phóng cũng nói như vậy. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, thậm chí ông ta còn nói mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Vị linh mục nói ông đã đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”.

Phạm Ngọc Thảo bị ám sát
(Ảnh Tư liệu)

Cha Lãm còn cho hay, Phạm Ngọc Thảo thường thay đổi chỗ ở với những hành tung lạ lùng, có khi ông ở ngay gần bót cảnh sát, ở chỗ nào ông cũng cho cha Lãm biết. Cuối cùng, khi những nơi khác không an toàn, ông về xứ Đa Minh của cha Cường ở Thủ Đức, rồi đến trú tại tu viện Phước Sơn. Tại đây, cha Lãm cũng làm hết sức mình để ông được an toàn nhất. Ông được các linh mục hết lòng bảo vệ, tuy nhiên, theo cha Lãm thì chính lòng tốt và sự thiệt thà của các linh mục bảo vệ ông đã khiến ông bị lộ. Khi ông bị thủ tiêu không chết, được các linh mục đưa về giáo xứ Đa Minh cứu chữa, bọn chúng cũng lần theo các linh mục để truy tìm ông.

Cha Lãm cho biết thêm, khi bọn chúng cấp tốc đưa Phạm Ngọc Thảo về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 trong tình trạng bị thương rất nặng, một chiếc trực thăng H-34 chở ông thẳng về Bộ Tổng tham mưu, tại đây người của Nguyễn Ngọc Loan đã chờ sẵn, lúc đó là 7 giờ tối 16.7. Trên quốc lộ 4, những người thân của Phạm Ngọc Thảo cũng rú ga xe chạy đến Mỹ Tho và Cần Thơ gặp 2 vị giám mục, đã có những cú điện thoại gọi về trong đêm cho trung tướng Thiệu, nhưng ngay trong đêm ông Thảo đã chết rồi. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”.

Điều chắc chắn là Nguyễn Văn Thiệu không tin ông Thảo là cộng sản, ông ta biết các vị chức sắc Công giáo cùng nhiều sĩ quan thuộc quyền ông ta cũng không tin ông Thảo là cộng sản. Bởi vậy mà Phạm Ngọc Thảo phải chết, vì ông là một đối thủ đáng gờm của người cầm quyền. Một người được giới chức sắc Công giáo hậu thuẫn, được giới quân sự nể phục, một người tay không mà tổ chức một cuộc binh biến khiến cho Nguyễn Khánh đang nắm trong tay cả một quân đội phải chạy tóe khói, người ấy không đáng gờm sao được! Nếu Nguyễn Văn Thiệu, nếu các vị giám mục, linh mục tin Phạm Ngọc Thảo là cộng sản thì chưa chắc ông đã bị thủ tiêu. Những nhà tình báo lừng lẫy như Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Tài… cũng như nhiều cán bộ cách mạng cấp cao bị bắt, giới cầm quyền biết chắc các vị là cộng sản, các vị bị đày ra Côn Đảo, nhưng các vị có bị thủ tiêu đâu.

Phạm Ngọc Thảo chết khi mới 43 tuổi. Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo. Sự hoàn hảo không phải trên vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che giấu, ở cuộc sống chính trực và tấm lòng chân thành. Cho đến bây giờ, khi biết ông là người của cách mạng, những bạn bè và những người quen biết ông từng ở phía bên kia vẫn yêu mến, vẫn ngưỡng mộ ông.

Hoàng Hải Vân

TÙY HỨNG PHÁP LÝ

TÙY HỨNG PHÁP LÝ
11:09 13 thg 12 2012Công khai37 Lượt xem 0

DƯƠNG PHI ANH

Tâm tư trước khi viết

Tôi ít khi viết đụng chạm tới các vấn đề lý luận, chính trị vì nghĩ sở học của mình còn quá đoản. Nó là sự vô cùng phức tạp, kèm cả sự “nhạy cảm” nên luôn làm tôi nơm nớp. Tôi đã từng gặp nhiều người mà chỉ xem bằng cấp, trình độ và quyền chức của họ là tôi đã “run”, không dám hó hé. Về mặt xã hội, trước đây tôi đã từng tin tưởng lắm về sự tốt đẹp của các vị lãnh đạo khi nghe, xem thời sự của VTV, VOV, báo Nhân Dân, QĐND, SGGP…
Nhưng, có những vấn đề khó hiểu không thể mãi làm ngơ, nằm yên trong vỏ kén được…
Trên tinh thần công dân, tôi viết bài này với mục đích góp ý sửa đổi hiến pháp một cách nghiêm túc. Cũng có nhiều điều không mới nhưng có nhiều điều tôi không hiểu, không thể hiểu nên viết để xin ý kiến! Tôi tạm gọi bài này là “Tùy hứng pháp lý” vì hai lý do. Nó không viết theo kiểu luận văn, mà theo kiểu “tôi thích”, hứng thú chủ đề gì thì chọn lọc đề cập vấn đề đó. Nên bài viết sẽ có sự lộn xộn nhất định!
Thứ hai, qua tham khảo các vấn đề quanh các bản hiến pháp trước đây, tôi thấy rằng trong một vài vấn đề cơ bản của hiến pháp, VN đã không tôn trọng như yêu cầu “tối thượng” vốn có của hiến pháp! Chứng tỏ, VN cũng là một trong những quốc gia mà truyền thống tôn trọng hiến pháp là điều đáng bàn. Hiến pháp thay đổi xoành xoạch như một bộ luật nào ấy (đã có các hiến pháp 1959, 1980, 1992 và chưa nói hiến pháp chế độ cũ). Trong đó, LẠ là còn có tình trạng “thích thì vận dụng, không thích thì… quên luôn” vấn đề nào đó dù hiến pháp có quy định. Chẳng hạn, có cả một bản hiến pháp tốt, được xây dựng một cách nghiêm túc, đúng quy chuẩn (có quốc hội lập hiến hẳn hoi) nhưng không được vận dụng trên thực tế. Đó là Hiến pháp 1946 (Bản hiến pháp này chỉ cần chỉnh sửa một số vấn đề cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế hiện nay là sẽ phát huy hiệu quả, chứ không cần rình rang tốn kém tài sản nhân dân – mà chưa chắc đã tốt)…
…Hoặc có một số chế định của hiến pháp 1992, đã rõ ràng, nhưng hàng chục năm nay “quên luôn”, không được cụ thể hóa bằng pháp luật để thực thi đúng, công bằng, phát huy hiệu quả. Chẳng hạn vấn đề Đảng lãnh đạo; vấn đề tín nhiệm, giải tán chính phủ…
Nên, phải chăng hiến pháp mới cần quy định nguyên tắc “rất VN” rằng “những vấn đề được quy định trong hiến pháp này phải nhanh chóng được luật hóa để thực hiện”?.
Tôi từng gặp một số đại biểu Quốc hội và cả người chuyên làm nhiệm vụ soạn thảo, ghi chép, chỉnh sửa các vấn đề mà đại biểu thảo luận, nhân dân góp ý…, nhưng có lẽ họ giỏi lĩnh vực khác chứ không phải lĩnh vực xây dựng luật; và họ làm đại biểu theo kiểu làm chính trị hoặc mục đích khác thì đúng hơn?!
Các vấn đề cơ bản của pháp luật họ (một số ĐBQH) chưa nắm thì không hiểu họ xây dựng pháp luật, giám sát… bằng cách nào? Đã vậy thì làm sao họ có thể bàn và biểu quyết về hiến pháp khi xem ra họ không hiểu cả tinh thần cơ bản của một bản hiến pháp là gì?!…
Nhưng sự đời đôi lúc không phải thế! Có người giỏi nhưng luật pháp vẫn dở. Một cựu nhà báo kể rằng: Anh có người thầy trình độ cao, khả kính. Trước đây, cuộc sống không giàu có, mà cũng chẳng nghèo, được nhiều người ngưỡng mộ. Cách đây mấy năm, thầy được chuyển về “gác cửa” chính sách, pháp luật cho một cơ quan lớn ở trung ương. Mới mấy năm mà nhà thầy là một biệt thự lộng lẫy giữa trung tâm thủ đô. Riêng hầm rượu của thầy cũng toàn hàng “độc”, giá trị rất lớn. “Mới có mấy năm mà sự vương giả, phù phiếm, lợm lợm đã che đi người thầy trí tuệ, thanh cao, khả kính ngày nào. Điều đó không biết đáng vui hay nên buồn. Những người trình độ cao, quyền chức cao mà chỉ lo vơ vét cho mình thôi thì giống như cá sấu thêm cánh?! Hỏi tại sao pháp luật VN vừa nhiều, vừa thiếu, vừa yếu, vừa phục vụ nhóm lợi ích nào đó và vừa như cái bẫy với nhiều người dân. Người dân và đất nước thì cứ tiếp tục điêu đứng, lầm than và nợ… muôn năm!…”. Cựu nhà báo kết luận.

Không thể làm ngơ

Sửa đổi lần này, nếu nói rằng “Hiến pháp 1992 đã phát huy vai trò trong giai đoạn lịch sử của nó như thế, như thế…, nhưng vẫn có một số khiếm khuyết cần sửa đổi như thế, như thế…” thì có lẽ chưa chính xác! Hãy nhìn vào thực trạng quản lý xã hội và cơ chế vận hành hệ thống chính trị có bị lộn xộn hay không sẽ thấy bản hiến pháp đó có tốt, có hiệu quả hay không?!…
Có hai nguyên nhân chính làm hiến pháp không tốt, không hiệu quả là: Hiến pháp được soạn thảo chưa rõ ràng hoặc chưa được thực thi nghiêm minh. Hiến pháp, pháp luật dù có tốt đến mấy mà vận dụng “tùy hứng” thì cũng như không có vậy…
Thực trạng xã hội khó kể ra đầy đủ, chỉ điểm qua bức tranh gần đây cũng thấy:
Các tập đoàn nhà nước như Vinashin, vinalines… đổ vỡ với hàng trăm ngàn tỷ đồng; thị trường tài chính, thị trường bất động sản… lộn xộn; ngành nông lâm sản bị thương lái người Hoa làm mưa làm gió, lừa gạt làm khốn đốn không biết bao nhiều lần; trên rừng dưới biển đều bị quậy phá, xâm lấn; tài nguyên quốc gia có biểu hiện khai thác bừa bãi; lòng tin con người trong xã hội bị xói mòn; trộm cắp, chém giết, lừa lọc ngày một tinh vi và man rợ hơn; người dân ngày càng khó khăn, điêu đứng; không ít phụ nữ, trẻ em bị bán ra nước ngoài làm vợ, làm gái, lao động khổ sai; đạo đức xã hội, liêm sĩ xuống cấp… Gần như mọi ngành quản lý dân sinh như văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao và các ngành thuộc hệ thống tư pháp các cấp, kể cả các đoàn thể, tổ chức xã hội… đều biểu hiện tiêu cực không hiếm, tham nhũng trở thành “bộ phận không nhỏ”, dân tình oan khiên phải “ra phố” khá nhiều…
Chính không ít cán bộ đàng hoàng, lao động chân chính, cũng than rằng việc làm sai của họ một phần do cơ chế, chính sách không đầy đủ, pháp luật không rõ ràng, minh bạch…
Nhưng, tôi vẫn tin người ta sẽ có biện pháp khắc phục. Tiến sĩ ở VN vào hàng “nhiều nhất Đông Nam Á” mà?! Với lại, “mọi việc đã có Đảng và nhà nước lo”…
Thấy trí thức, những chuyên gia chân chính, hết lòng vì dân, vì nước (và như thế là cả vì Đảng) can gián mà bị bỏ ngoài tai, không được trọng dụng, tin tưởng và thậm chí gặp tai họa, thấy buồn. Một người “vững lòng tin” (như tôi chẳng hạn) cũng đâm ra nao núng, nghi hoặc…
Nghi đầu tiên là lý luận! Phải chăng lý luận sai hoặc xa rời thực tế?
Xin điểm qua một vài chi tiết cơ bản (mà theo cách hiểu giản đơn, sơ đẳng của tôi là có thể vận dụng, thực hiện dễ dàng). Vậy mà tại sao thực tế lại càng ngày càng rối và khó đến thế?!.

“Xã hội đi trước”

Trước hết, tôi thích dùng cái tên gọi CNTB “giẫy chết” là “xã hội đi trước” hoặc “chủ nghĩa đi trước”. Bởi lẽ, về sự xuất hiện của “nó” thì cũng trước; sự thành công trong phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn mình của đại đa số “họ” cũng trước so với các nước thuộc nhóm “đang phát triển”, trong đó có VN, Trung Quốc… Và, nếu có “chết” thì chắc là họ cũng “chết” trước, trong giàu có, văn minh. Vì, như thế mới có “cái” mà kế thừa. Theo cách nói “cao hơn vì biết đứng trên vai người khác” thì hình thái kinh tế, xã hội đi sau, tiến bộ hơn một phần nhờ có sự kế thừa hình thái kinh tế, xã hội đi trước để/ mới phát triển hơn được…
Hình như các nhà lý luận kinh điển của “chủ nghĩa đi trước” có nói rằng quyền lực nhà nước là thứ luôn luôn có xu thế bị lạm quyền. Vì vậy, khi quyền lực lớn trao cho ai đó mà không có cơ chế kiểm soát thì chắc chắn lạm quyền là không tránh khỏi. Nói nôm na như các cụ xưa là lũng đoạn, là “đục nước béo cò”. Còn nói như gần đây là “nhóm lợi ích”, một cụm từ mà nghĩa đen bao trùm của nó luôn là biểu hiện sự tiêu cực, bè cánh, mafia làm hại dân, hại nước; chứ không phải hiểu “nhóm lợi ích” cũng có nhóm có lợi cho dân, lợi cho nước như thủ tướng đương nhiệm “luận” vừa qua. Lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, nhân dân chuyển về cho nhóm nào đó một cách chủ quan, tùy tiện, lách luật để hưởng lợi cho “bè phái” mình, mà bảo “có lợi” sao được?!…
Cũng theo các nhà kinh điển của “xã hội đi trước”, cơ chế kiểm soát phải bằng cái gọi là PHÁP LUẬT, với những quy phạm chặt chẽ và được thực thi nghiêm minh, mọi hoạt động của tổ chức, cá nhân trong xã đều phải tuân thủ pháp luật, chứ không phải là sự vận động rèn luyện theo kiểu phong trào, dễ tùy hứng; là “phê và tự phê” theo kiểu “đóng cửa bảo nhau” úp úp, mở mở…
Sự lãnh đạo, quản lý quốc gia cần thiết sự minh bạch bằng thông tin, pháp luật chứ không thể bằng kêu gọi, vận động chủ quan, cào bằng. Người ta hiểu rất rõ rằng chẳng ai tự nguyện từ bỏ quyền lợi do quyền lực nhà nước mang đến nên không thể vận động khơi khơi mà phải bằng pháp luật với những giả định, chế tài cụ thể. Đó cũng là một nguyên tắc tiến bộ của “xã hội đi trước”…
Cũng phải trải qua thời gian dài thực nghiệm, bằng những bộ óc thiên tài, “xã hội đi trước” đã đề ra cái nguyên tắc bất hủ là “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Ai cũng biết, không thể có một đất nước văn minh nào mà không áp dụng nguyên tắc này. Áp dụng càng nghiêm túc thì đất nước càng phát triển, dân chủ, văn minh…
Nhưng, trong trường hợp mọi người không thể bình đẳng một cách tuyệt đối trước pháp luật và sự lạm quyền vẫn xảy ra như sự đương nhiên thì sao? Thì người ta có cơ chế để cương tỏa quyền lực, mà cụ thể gọi là cơ chế “kìm chế, đối trọng”.
Muốn có đối trọng để kìm chế quyền lực lẫn nhau, tránh được lạm quyền thì không có cách gì khác là phải có hai thực thể trở lên. Nếu không thì làm sao có “đối trọng”?!
Đến đây nhớ lại thì hình như chính ông Mác cũng nói: Sự tồn tại biện chứng (khách quan) của các mặt đối lập và; Phát triển là quá trình vận động, đấu tranh giữa các mặt đối lập trong một thể thống nhất, hoàn chỉnh (các nhà triết học cao siêu của VN gọi là “chỉnh thể”)?!…
Có lẽ, cho đến khi chính các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu “giẫy chết” thì người trong cuộc mới xem lại lý luận của Mác một cách có lý trí, nghiêm túc, khách quan chứ không còn cảm tính, mù quáng, thiên lệch. Không ít người nhận ra rằng chính các nước tuyên bố theo CNXH thì lại “làm ngược” những lý luận cơ bản của Mác nhất. Cụ thể, trong khi chủ nghĩa Mác luôn đề cao sự tồn tại khách quan, hợp quy luật thì chính các nước sụp đổ lại là những “chuyên gia” áp đặt “chủ quan, siêu hình” khi thực hiện chính sách kế hoạch hóa, bao cấp, chuyên chế. Thứ mà các nhà lý luận sau này “tự phê” gọi là “chủ quan duy ý chí” – luôn đi ngược sự thật, sự tồn tại khách quan.

Sự nghi ngờ

Phải chăng, đến nay người ta một lần nữa lại quên đi khái niệm “các mặt đối lập”?
Vì, khi quyền lực chỉ còn một cực, khi mầm móng cho sự xuất hiện cái mới đã bị bóp chết trong trứng nước, thì làm sao có “mặt đối lập” để có “đấu tranh giữa các mặt đối lập” mà phát triển theo đúng lý thuyết mà Mác vạch ra?!
Mặt khác, không hiểu sao, từ lâu tôi nghi ngờ từ “đấu tranh” khi nói rằng “phát triển là quá trình vận động, đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Có một người nghiên cứu triết học, giỏi tiếng Anh và tiếng Đức nói rằng không hiểu vì mục đích chính trị hay kém ngoại ngữ mà sách triết học Mác bằng tiếng VN rắc rối, sai nhiều khái niệm và định nghĩa cơ bản so với bản gốc của nó (?).
Sở dĩ tôi nghi ngờ từ “đấu tranh” vì đấu tranh sẽ dẫn tới hai hệ quả. Một là: “các mặt đối lập” mà đấu tranh, chiến đấu với nhau thì sẽ có bên chiến thắng, xuất hiện yếu tố mới để phát triển. Nhưng khi chiến thắng rồi, bên chiến thắng sẽ luôn muốn nắm giữ quyền, kìm hãm, không cho yếu tố khác xuất hiện mà muốn “một minh một chợ” thì cũng không thể còn ai mà “đấu tranh” theo đúng lý luận “đấu tranh – phát triển”. Hai là: Khi đấu tranh sẽ dẫn đến sự tự triệt tiêu sức mạnh của mình và của nhau, làm sao “đủ sức” để cùng phát triển. Các cụ xưa nói rồi “ngao cò tranh đấu (yếu đi), ngư ông đắc lợi” mà…
Vấn đề này, xem ra các nước mà ông Mác sống và nghiên cứu ngày xưa giải quyết hợp lý hơn. Họ sau này không thiên về cơ chế “đấu tranh” mà tạo ra cơ chế “cạnh tranh”. Mà cạnh tranh phải là “cạnh tranh lành mạnh” để các bên đều thắng. Bên nào ở thời điểm nào đó có phương pháp phục vụ nhân dân, khách hàng tốt thì sẽ thắng, nhưng không bao giờ là vĩnh viễn. Bởi, họ hiểu quy luật “sống lâu lên lão làng” và bảo thủ. Nên, đi đôi với cạnh tranh lành mạnh là họ luôn cương quyết chống độc quyền…
Đi trước các nước đang phát triển hiện nay hàng trăm năm, tiếp thu với hàng loạt học thuyết chính trị, triết học, kể cả triết học của Mác, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão…, chắc chắn các nước phát triển hiện nay chẳng “ngu” đâu khi họ không để cho một tập đoàn, một tôn giáo, một đảng phái chính trị…, độc quyền; hoặc cho phép một bên nào đó của “các mặt đối lập” dùng thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh. Vì như thế họ biết rằng không bao giờ đem đến sự phát triển lành mạnh, bền vững, dân chủ, tiến bộ…
Cũng theo cách làm của “xã hội đi trước”, khi các tập đoàn cùng ngành nghề có đối thủ cạnh tranh, họ phải luôn luôn thay đổi để ngày càng phục vụ khách hàng của mình tốt hơn; khi có các đảng phái chính trị cạnh tranh lành mạnh thì các đảng luôn phải chứng tỏ rằng mình có những chiến lược, chủ trương, chính sách tốt nhất để phục vụ quốc gia, nhân dân tốt hơn đảng kia. Và cứ thế, nhân dân được hưởng…
Luật pháp của họ không để cho hai phe “đấu tranh” như ở Thái Lan và một số nước khác, làm triệt tiêu sức mạnh xã hội. Nhắc đến Thái Lan, nhiều người sẽ nói “Đó! Đa đảng đi rồi mà hỗn loạn”. Có lẽ, chỉ một vài nước như Thái Lan thôi và cũng do luật pháp để cho hai phe đấu tranh, lộng quyền mới như thế. Nhưng, dù sao thì Thái Lan còn có Vua, người luôn được các phe kính nể, là biểu tượng thiêng liêng của quốc gia và bất khả xâm phạm. Theo đúng với mô hình của chính thể quân chủ lập hiến thì vua lúc bình thường thì “lùi về với ngai vàng”, nhưng trong trường hợp có chính biến, vua là biểu tượng quốc gia thiêng liêng sẽ đứng ra dàn xếp và có quyền hạn bắt buộc các bên phải tuân thủ…
Về mặt nhà nước, người ta rút ra công thức kinh điển rằng phải có sự độc lập tương đối giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ngay trong các nội bộ ở ba quyền này cũng phải tạo ra cơ chế kìm chế, đối trọng để luôn có sự cương tỏa, khắc chế sự lạm quyền lẫn nhau giữa mỗi cấp quyền lực và mỗi thực thể thực hiện quyền lực đó.

Đảng cầm quyền!

Phần trên là chuyện các nước thuộc “xã hội đi trước”. Còn ở VN thì đã “nhất quyết” một đảng cầm quyền rồi! Có lẽ lý thuyết “mặt đối lập” không tồn tại trong mô hình một đảng và một đảng “thống nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội”, do chỉ còn một cực?! Vì vậy, phải chăng, về lý thuyết, như đã dẫn, khi không có đấu tranh, cạnh tranh giữa các mặt đối lập thì sự phát triển sẽ là … chưa có điều kiện kiểm chứng?!
Trong một xã hội có nhà nước văn minh, không phân biệt chế độ chính trị nào thì nguyên tắc mọi người luôn luôn tuân thủ Hiến pháp, pháp luật phải được đưa lên hàng đầu. Pháp luật càng chặt chẽ, đầy đủ, dễ hiểu, dễ thực hiện và người áp dụng (dùng cho nhà nước) và người vận dụng (dùng cho người dân) đều thực thi, chấp hành một cách nghiêm túc thì hiệu quả pháp luật, hiệu quả quản lý xã hội sẽ cao.

Ở VN, ngay những vấn đề quan trọng bậc nhất lại quy định chung chung, trừu tượng. Nên với trình độ còn hạn chế như tôi thì chưa thể hiểu nỗi, không thể hiểu nổi! Tôi viết ra đây để xin tham khảo ý kiến:

Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nói: “Đảng ta là đảng cầm quyền”; còn Điều 4 Hiến pháp 1992 thì nói: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Có lẽ, qua các văn bản, tác phẩm đã công bố, cách dùng từ của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiếm khi sai! “Cầm quyền” ở đây là cầm, giữ quyền lực nhà nước. Mà quyền lực nhà nước là của nhân dân. Sự trao quyền này không có tính chất vĩnh viễn mà theo nhiệm kỳ, tùy vào sự tín nhiệm của nhân dân với đảng cầm quyền. Cụ thể, nhân dân chỉ trao quyền cho đảng “cầm quyền” thông qua chính phủ, cơ quan hành pháp, để điều hành đất nước, phục vụ, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành các mối quan hệ xã hội và tổ chức xã hội, quyền cơ bản công dân, lợi ích quốc gia…

Chức năng lớn nhất của đảng phái chính trị là để được “cầm quyền” do nhân dân trao, tập trung ở cơ quan hành pháp, tức là chính phủ thôi. Nói tóm lại, mục tiêu mà các đảng hoạt động là chỉ để được nhân dân trao quyền thành lập chính phủ mà thôi. Nếu không còn tin tưởng hay không hiệu quả trong “cầm quyền” của chính phủ với quốc dân thì nhân dân có quyền lấy lại bằng một cơ chế do pháp luật quy định. Vì vậy, rất nôm na, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nếu chính phủ làm hại dân thì nhân dân có quyền đuổi chính phủ”. Điều này hết sức phù hợp với thông lệ quốc tế về các đảng phái chính trị…

Còn việc Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” thì quả là khái niệm rộng, trừu tượng vô cùng. Người lãnh đạo thì bao giờ cũng “trên” người khác – người bị lãnh đạo, một bậc? Về kinh nghiệm xây dựng chính sách, pháp luật, khi khái niệm càng rộng, càng trừu tượng, dàn trải thì khó mà phát huy hiệu quả trên thực tế. Bởi, người ta rất dễ hiểu không đầy đủ, hiểu sai, lệch. Mà khi đã hiểu sai, lệch thì rất dễ dẫn đến tình trạng làm sai, lách luật, lạm quyền…

Cũng vì “hừng hào” với khái niệm “lãnh đạo toàn diện” như vậy, có người bảo đảng ta là đảng dân tộc, đại diện toàn diện của dân tộc VN. Nói vậy thì khi đảng đúng thì dân tộc VN đúng, mà khi đảng sai thì dân tộc VN cũng sai theo à? Thực tế lịch sử cho thấy không phải lúc nào chủ trương, chính sách của đảng cũng đúng…

Cho đến nay, hình như nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” đã chưa có điều kiện điều chỉnh đến tổ chức Đảng. Vì Luật về Đảng cũng chưa có. Quả là tôi không hiểu điều này!

Rõ ràng, quy định Đảng lãnh đạo cả “xã hội” thì quá rộng? Không ai thiên tài biết hết mọi ngóc ngách quan hệ của xã hội để mà lãnh đạo cả. Cho dù lý luận rằng đảng chỉ lãnh đạo bằng chủ trương, định hướng, chính sách chung của các quan hệ xã hội thì ngay quy định này dễ dẫn tới xa rời chức năng cơ bản mà một đảng phái chính trị luôn luôn có. Đó là chức năng cầm quyền, giới thiệu nhân sự điều hành nền hành chính quốc gia chứ không phải chức năng lãnh đạo mọi mặt, mọi quan hệ của đời sống xã hội. Phải chăng đó là xu thế mở rộng quyền lực hiển nhiên mà các nước “xã hội đi trước” đã trải qua nên họ có cơ chế kìm hãm?! …

Năng động hành pháp, ổn định lập pháp, tư pháp

Quyền lực nhà nước có ba quyền cơ bản: Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp. “Xã hội đi trước” phân tách ba quyền này một cách độc lập. Xã hội “quá độ lên CNXH” ở VN thì bảo là ba quyền này phải thống nhất và có sự phân công, phân nhiệm… Tôi cũng không rõ “thống nhất” như thế nào, “thống nhất” về đâu khi ba cơ quan này có chức năng hoàn toàn khác nhau và trong hoạt động có đặc thù riêng?! Có cơ quan đòi hỏi phải có sự liên quan với đảng cầm quyền mới tốt (chính phủ); có cơ quan càng không có liên quan, can thiệp càng tốt (tư pháp) hoặc có can thiệp, liên quan nhưng phải đối trọng, phản biện mới tốt (Quốc hội).

Về chính phủ, khi thành viên của đảng cầm quyền được tỷ lệ phiếu bầu cao của dân thì được đứng ra thành lập chính phủ và ngược lại nếu chính phủ bị phiếu tín nhiệm thấp thì phải từ chức, giải tán để mở đường cho việc thành lập chính phủ mới. Có thể hiểu, lãnh đạo chính phủ chỉ là một ê-kíp được lập ra để điều hành nền hành chính quốc gia (không làm kinh tế) theo sự chỉ định của đảng cầm quyền tại một thời điểm nhất định mà thôi. Vì thế, trong trường hợp điều hành yếu kém, không hiệu quả, mà không thể thay đảng cầm quyền, thì việc thay lãnh đạo chính phủ để phục vụ nhân dân tốt hơn là điều hết sức bình thường!… Chính phủ là cơ quan điều hành, quản lý nên luôn được/phải tiếp cận với nhiều thông tin, xu hướng phát triển nhiều mặt của xã hội, nên người ta phải đặt cơ chế tồn tại, phát triển, giải tán một cách năng động. Sự giải tán chính phủ không làm xáo trộn cơ bản các mối quan hệ, tồn tại khác trong xã hội. Nên như Nhật Bản, thay đổi chính phủ liên tục nhưng xã hội vẫn hết sức ổn định…

Quyền điều hành đất nước ảnh hưởng tới đa số các quan hệ xã hội nên vô cùng quan trọng. Vì vậy, đúng ra, những luật cơ bản trong tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành pháp thì phải có luật quy định rõ ràng, chặt chẽ và sớm nhất. Nó là bản lề cho mọi hoạt động quản lý, vận hành đất nước. Thế nhưng, đến nay đã mấy chục năm rồi mà chưa có luật về bỏ phiếu tín nhiệm thành viên chính phủ (chẳng hạn) nên hiệu quả không cao cũng chẳng trách nhau được!…

Ngược lại, bên lập pháp và tư pháp cần tính chất chuyên ngành, kinh nghiệm cao nên phải có sự ổn định, cần cơ chế ổn định. Vì vậy, người ta phải có đa số đại biểu quốc hội là chuyên nghiệp; thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời…

Chức năng lớn nhất của phía Tư pháp là trọng tài phán quyết theo pháp luật, nên cần sự độc lập để không đứng về bên nào. Khi luật pháp phát triển dân chủ, chính cơ quan nhà nước, kể cả tổ chức đảng cũng là đối tượng có thể bị kiện thì liệu “đảng lãnh đạo” cơ quan tư pháp có tạo ra sự bình đẳng khi tòa phải phán quyết người “lãnh đạo” của mình? Rõ ràng, nếu có sự lãnh đạo về mặt tổ chức, chính trị thì quyền tài phán độc lập chắc chắn bị ảnh hưởng, khó công bằng. Tương tự, phía lập pháp cũng vậy. Vì Đảng lãnh đạo nên “bảo” chưa ra luật này, chưa ra luật kia theo chủ trương thì Quốc hội phải tuân thủ?!…

Trong khi đó, luật do Quốc hội làm ra để điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, cần thiết trong xã hội, kể cả tổ chức đảng nên quốc hội phải độc lập, không lệ thuộc đảng mới đúng…

Phải có quá trình mới nhận thức được?

Có những điều hiển hiện đấy, hiệu quả đã được kiểm chứng đấy, nhưng người ta không muốn thì cũng không thể thành hiện thực. Thay vì nếu nói vận dụng triết học của Mác, đầu tiên phải là sự chọn lọc, kế thừa thì người ta lại phá bỏ, làm lại. Làm mới rồi cũng phải “trở lại đường rầy” nhưng do muốn chứng tỏ nên “làm khác đi” một tý, một cách duy ý chí.
Thực ra, tổng kết lại, mặc dù VN không có nền triết học đúng nghĩa, không có truyền thống triết học nhưng chỉ cần học kinh nghiệm từ cha anh của mình thôi cũng đủ. Các cụ bảo “ăn cơm đi trước, lội nước đi sau”. Dù muốn hay không thì thực tế rất nhiều điều VN mình đi sau, đến sau rồi. Vì vậy, cần phải luôn biết tận dụng lợi thế của người đi sau chứ không phải “đi tắt, đón đầu” như nhiều người nghĩ. Không thể nào đi tắt, đón đầu được khi nền tảng của mình chưa có. Trong công việc “lội nước”, sáng suốt biết, lựa chọn con đường hiệu quả đã được kiểm chứng và biết tránh những điều bất lợi để không đi vào vết xe đổ là quý lắm rồi! Chỉ cần kế thừa những điều tốt, hiệu quả đã được kiểm chứng, không cần thử nghiệm mô hình nào mới mà chưa kiểm chứng hiệu quả, thậm chí đã bộc lộ khiếm khuyết, thì cũng sẽ lập tức đưa đất nước đi lên…
Đúng như lý luận của chủ nghĩa Mác, nói “nhận thức là cả quá trình”. Có lẽ do… chưa đủ quá trình nên chúng ta chưa nhận thức được? Chưa biết đến bao giờ mới đủ “quá trình”?…
Chủ tịch HCM từng nói: “…Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Rõ ràng, nếu có một thực thể, một đảng phái nào luôn đặt lợi ích chung quốc dân lên làm đầu, luôn đau đáu tìm cách làm cho dân được hưởng ấm no, hạnh phúc, quốc gia ngày càng hưng thịnh thì dù đảng phái mang tên gì nhân dân cũng coi trọng!..

Chuyện “đỡ lắm” ở quán cơm Nụ Cười

Chuyện “đỡ lắm” ở quán cơm Nụ Cười
03:57 27 thg 10 2012Công khai6 Lượt xem 0

(Tuổi Trẻ)
Thứ Hai, 22/10/2012, 11:00 (GMT+7)
TT – 11g, quán cơm xã hội Nụ Cười (6 Hồ Xuân Hương, quận 3, TP.HCM) mới bắt đầu bán phiếu. Nhưng mới hơn 10g, tôi thấy một người đàn ông trạc 60 tuổi, gầy gò, áo quần bạc thếch, đứng trước cửa quán.

Khách đến ăn tại quán cơm xã hội Nụ Cười – Ảnh: T.ĐẠM
Ông im lặng chăm chú đọc những tấm bảng treo trước quán: : “Cơm trưa 2.000 đồng – vào cửa tự do”; thực đơn: “Gà kho gừng – Xào chua ngọt – Canh cải thịt bằm – một miếng đu đủ – Cơm canh không hạn chế – Trà đá miễn phí – Giữ xe miễn phí”.

Thấy ông đứng ngoài nắng, một cô tình nguyện viên vội bước ra mời ông vào. Ông cứ chần chừ rồi rụt rè hỏi: “Thiệt không cháu, hai ngàn?…”. Cô tình nguyện viên cười: “Dạ, thiệt mà, bác chịu khó vào ngồi đợi tí. 11g bác đến quầy này mua cái phiếu rồi vào lấy cơm…”.

Nụ cười của khách hàng

Có lẽ không riêng gì người đàn ông ấy, nhiều người mới đến quán lần đầu đều hỏi như vậy. Rồi khi đã mua cái phiếu 2.000 đồng và bưng khay cơm có nhiều ngăn đựng đầy đủ những món ghi trong thực đơn cùng muỗng, nĩa bọc trong miếng giấy lau trắng toát, đến ngồi ở chiếc bàn sạch sẽ… thì không hỏi nữa mà ai cũng nói: “Đỡ lắm…”.

Như ông Nguyễn Văn Dương, 65 tuổi, đang bị bệnh gan cũng phải ráng đi làm bảo vệ ở Bệnh viện Da liễu, vừa ăn miếng đu đủ tráng miệng vừa nói: “Hôm khai trương, tôi qua thấy bữa cơm có hai ngàn mà ghi “sạch, no, ngon, thân thiện”, cứ ngờ ngờ, nhưng ăn rồi mới thấy y như vậy. Có cái quán này đỡ lắm…”. Đỡ làm sao? Ông chứng minh cụ thể: “Thường tôi ăn bữa hết 19.000 đồng, ăn ở đây dư ra được 17.000, tuần ba bữa, gom lại, bù vào tiền khám bệnh, khỏi ngửa tay xin thêm con cái…”.

“Đỡ lắm” là hai từ tôi nghe nhiều nhất ở quán. Tôi gặp nhiều người trong số 250 khách của quán hôm ấy (mỗi buổi quán bán 250 suất, vào các trưa thứ hai, tư, sáu), hầu hết ai cũng nói đi nói lại hai từ ấy. Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, cái “đỡ lắm” của người này khác với cái “đỡ lắm” của người kia, nhưng tất cả đều giống nhau là bữa cơm ở quán đều giúp họ giảm nhẹ phần nào những khó khăn, nhọc nhằn, lo toan mà họ luôn phải mang vác trên đường đời.

Với cháu Hùng, 13 tuổi, ở Tuy Hòa, đi bán vé số, thì ngoài chuyện “ăn được miếng thịt gà kho sả ngon quá chú ơi”, cái “đỡ lắm” của cháu là “dư ra thêm được mấy chục ngàn gửi về phụ mẹ nuôi em”. Vì cha cháu mất rồi, mẹ ở quê nhà phải nuôi ba đứa em của cháu mà chỉ dựa vào gánh rau cải tròng trành…

“Tiền thiêng liêng”

Ông Nguyễn Minh Lộc (Nam Đồng, nguyên tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM, chủ nhiệm quán Nụ Cười) cho biết sau mấy ngày hoạt động, có thể ước tính về thành phần khách như sau: 30% là sinh viên, học sinh; 30% là bà con bán vé số, xe đẩy, xe ôm, đạp xích lô, lượm ve chai, thợ hồ…; 25% là bệnh nhân, thân nhân nuôi bệnh ở Bệnh viện Da liễu và Bệnh viện Mắt; 15% không xác định được thành phần, ăn mặc sạch sẽ, lịch sự.

Quán cơm xã hội Nụ Cười thuộc quỹ từ thiện Tình Thương. Quỹ được sự đóng góp của nhiều nhà hảo tâm. Trong “10 nguyên tắc ứng xử cho các thành viên quỹ từ thiện Tình Thương” có ghi: “Những đóng góp dù ít hay nhiều đều xuất phát từ tấm lòng hướng thiện. Những đồng tiền đó rất dễ thương, rất đáng quý nên chúng ta gọi là tiền thiêng liêng…”. Tiền thiêng liêng nên chỉ dành toàn bộ để chi cho người nghèo, không chi bất cứ một đồng nào cho “bộ máy” quản lý, tất cả đều là tình nguyện viên.

Ngồi chung bàn với mấy em học sinh là một người đàn ông mặc chiếc áo kaki đầy những vết bẩn, tóc loe hoe khô cháy, đi lượm ve chai. Ông tên Hùng, ở Bình Dương. Khi tôi dò hỏi một ngày lượm bán được bao nhiêu, ông không trả lời, cứ từ từ bỏ chiếc muỗng xuống, đưa tay moi vào túi quần và móc ra một mảnh giấy nhàu nát: “Không giấu gì chú, đây, lượm cả chiều với đêm hôm qua đây…”. Thì ra đó là mảnh giấy của một vựa ve chai ghi: “Mủ 3.800 – bình 1ký 8 21.500 – lon 20c 7.600 – cộng 32.900”.

Với số tiền ít ỏi đó, hằng ngày ông phải tìm về tận khu Vườn Chuối để ăn đĩa cơm “nhiều cơm, ít đồ ăn” và trả 12.000 đồng. Giờ đây, với ông, ăn bữa cơm 2.000 đồng “no, ngon, sạch…” tất nhiên đỡ lắm. Biết vậy, nhưng điều tôi không ngờ là nhờ những bữa cơm của quán Nụ Cười mà trong tuần qua ông… tắm được vài lần. “Có dư đồng tiền mới tắm được, mỗi lần tắm mất 5.000 đồng chớ có ít đâu…”.

Tất nhiên, đến với quán cũng có những khách khá đặc biệt, như một anh nọ, ăn xong đứng dậy cứ gật gật đầu, hỏi quán bán đến mấy giờ rồi đi. Một đỗi sau, bất ngờ anh chở đến hai bao gạo, bỏ xuống rồi đi, không chịu nói tên nói tuổi. Một anh khác mặc quần lửng áo thun, ăn xong hỏi quán có bao nhiêu người phục vụ, không biết để làm gì, té ra anh đi mua 20 ly sữa đậu nành đem lại quán: “Cho mấy em phục vụ uống, thấy em nào cũng tận tình, thương quá…”.

Như bốn em học sinh lớp 6, lớp 7 ăn xong chưa chịu về, cứ ngồi xầm xì với nhau, rồi một em đến quầy mua một cái phiếu nữa. Một anh tình nguyện viên ân cần hỏi: “Em ăn chưa no à? Sao không lấy cơm thêm?”. Em rụt rè đáp: “Dạ không, no lắm rồi ạ. Cho cháu mua phiếu nhưng không lấy phần ăn nữa, cháu xin góp cho quán ấy mà”.

Nụ cười tình nguyện viên

Trong sổ tay tình nguyện viên của quán ghi rất rõ: “Quán cơm xã hội Nụ Cười luôn chào đón những tình nguyện viên mới. Các bạn sẽ được phân công theo nhóm, và dù có thực hiện nhiệm vụ gì thì tình nguyện viên chúng ta phải thật sự hòa nhã, vui vẻ…”. Tình nguyện viên được chia làm bảy nhóm: nhóm P (bán phiếu), nhóm R (rửa khay cơm), nhóm B (bếp)…

Mới hoạt động được năm ngày mà nhóm nào cũng thừa người. Nhiều bạn trẻ đến, quán đành phải hẹn hôm sau. Sáng sớm đến quán, xuống bếp tôi thấy ai cũng cặm cụi làm việc như trong một nhà hàng chuyên nghiệp: hai cô gái rửa rau, hai cô xắt thịt, một cô đang đun chiếc xoong to, hai cô khác tỉ mỉ lau những chiếc khay…

Hầu hết các cô đều là sinh viên, nhân viên ở các công ty, trừ cô đang đun chiếc xoong to làm món gà kho gừng. Đó là cô Thường, bán hột vịt lộn – cháo lòng ở lề đường Hồ Xuân Hương, đối diện với quán. 12g cô mới bắt đầu bán. Bán đến tối, dọn hàng xong là mẹ con cô lại tất tả chạy qua quán làm thịt, cá, ướp sẵn đâu vào đó rồi mới về, và sáng sớm cô lại đến nấu, kho…

9g, quán còn vắng, bỗng một chiếc ôtô màu đen bóng loáng dừng ngay trước quán. Một người ăn mặc tươm tất bước xuống, xăm xăm đi vào và không nói không rằng, anh kéo những chiếc bàn kê lại cho ngay ngắn rồi rút chiếc khăn lau bàn ghế. Hỏi ra mới biết anh là Hùng, tài xế của một công ty viễn thông. Sáng anh đưa giám đốc đến cơ quan và đánh xe về đây làm tình nguyện viên, trưa lại đến đón vị giám đốc. Anh thuộc nhóm T (trật tự), nhưng khi chưa có khách anh làm đủ việc: lau bàn ghế, chuẩn bị bình nước đá, xếp ly… Khách đến, anh đứng ngoài nắng đón khách, hướng dẫn để xe. Có khách đi xe lăn đến, anh nhanh nhẩu bế khách vào tận bàn, móc tiền mua chiếc vé và nhờ người vào lấy cơm cho khách…

Một nội dung ghi trong sổ tay tình nguyện viên đã toát lên rất rõ ở nơi này: “Hòa nhã, vui vẻ”. Tôi thấy thêm: sự trân trọng và lòng yêu thương. Chính điều đó đã làm an lòng những người khách bước vào quán, nhất là những người khách đang rơi vào cảnh khốn khó, đói nghèo nhất trong cuộc đời này, như anh Hùng lượm ve chai đã ứa nước mắt nói: “Từ trước tới giờ mình có được ai mời chào gì đâu…”.

HÀNG CHỨC NGUYÊN

Khi trái núi đẻ ra… “một đồng chí”

Khi trái núi đẻ ra… “một đồng chí”
22:01 25 thg 10 2012Công khai22 Lượt xem 0

(Không biết tác giả Nguyễn Ngọc Giao là ai nhưng thấy có bài viết trên Anh Ba Sàm “khó chịu quá” về “đồng chí” Thủ tướng, người mà em rất “nể”…)
Bình luận về Hội nghị Trung ương 6 của ĐCSVN

Nguyễn Ngọc Giao

24-10-2012

Sau này bất luận thế nào, có lẽ 15.10.2012 sẽ được ghi là ngày tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng — và tập thể 174 đồng chí ủy viên trung ương của ông — đi vào lịch sử bằng cổng sau. Hai tháng chuẩn bị thực hiện “nghị quyết 4″ (về phê và tự phê), 3 tháng họp 4 đợt, rồi 15 ngày liên tục “Hội nghị Trung ương 6″ (trong đó 5 ngày tập trung về NQ4), để rồi quyết nghị đầu voi đuôi chuột : “không kỉ luật” cả Bộ chính trị lẫn “một đồng chí ủy viên Bộ chính trị“. Ngôn ngữ chính trị Việt Nam từ nay được làm giàu với những cụm từ “một đồng chí“, mà mấy ngày sau, chủ tịch Trương Tấn Sang gọi là “đồng chí X“. Đồng chí không được/bị nêu tên ấy, mọi người đều biết, chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người trực tiếp thành lập và chỉ đạo 18 tập đoàn kinh tế (Vinashin, Vinalines…) đang nợ như chúa chổm, và đã phung phí không biết bao nhiêu tài nguyên của đất nước. Ông Sang đã từng nói nạn tham nhũng không chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” mà là cả “một bầy sâu“. Lần này, ông nói tới “tập đoàn” sâu. Dùng chữ “tập đoàn” (tuy không nói rõ con số 18), chắc ông Sang không vô tình lỡ lời.

Thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng “xin lỗi toàn đảng, toàn dân” (nhiều người để ý ông nghẹn ngào khi nói mấy lời này). Mấy ngày sau, thủ tướng Dũng cũng nối điêu “xin lỗi” trước Quốc hội.

Đây không phải lần đầu, lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam xin lỗi toàn dân. Lần trước, vào những ngày này năm 1956, chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phải thay mặt Trung ương xin lỗi toàn dân về những sai lầm và tội ác trong cải cách ruộng đất. Chỉ khác một điều, năm ấy ông Lê Văn Lương đã bị đưa ra khỏi Bộ chính trị, ông Trường Chinh mất chức tổng bí thư. Bây giờ, có thể trách ĐCS vẫn chưa gột rửa hết những sai lầm của thời ấy, không từ đó rút ra một cách triệt để những bài học 1, nhưng ít nhất cuộc sửa sai cũng thực sự được tiến hành tuy không rốt ráo, và bước đầu, ĐCS đã phần nào thoát khỏi ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Mao.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch nước Trương Tấn Sang
và “đồng chí X” (ảnh AFP)

Marx, đâu đó, đã nhận xét : lịch sử thường lặp lại, lần thứ nhất, là một bi kịch, lần thứ hai, là một hài kịch. Xin lỗi mà quyết định “không kỉ luật” của Trung ương ĐCS và lời kêu gọi cán bộ phải “tự trọng” của ông Nguyễn Tấn Dũng, quả là hài hước hiếm thấy. Điều mà Marx không tiên liệu là hài kịch có thể diễn ra trong bối cảnh một thảm kịch khôn cùng.

Trong bối cảnh tình hình kinh tế – chính trị – xã hội chung của đất nước, với những đe dọa quân sự, kinh tế, nhân sự của Trung Quốc, chỉ cần nhìn tình hình kinh tế cũng đủ thấy rõ mức độ nguy kịch :

* Hệ thống ngân hàng đang đối mặt với rủi ro hệ thống ngày càng cao. Có nguy cơ các ngân hàng sụp đổ hàng loạt, do nợ xấu chồng chất đến 200 ngàn tỷ đồng, trong đó 70 % là nợ của khu vực quốc doanh. Theo tác giả Tô Văn Trường : “Một số thông tin từ cơ quan tài chính, ngân hàng, từ IMF, ADB và báo chí ở Việt Nam cho chúng ta thấy với số liệu năm 2011 : tổng nợ của doanh nghiệp nhà nước tương đương 52,2 tỷ USD, bằng 43% GDP, riêng phần doanh nghiệp nhà nước nợ các ngân hàng là 24,5 tỷ US, trong đó 47% là nợ xấu.” (xem tại đây) 2. Khi chúng tôi viết những dòng này, được biết một phái đoàn của ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á) đang chuẩn bị tới Hà Nội để “báo động lần chót” về nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng.

* Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước gây thất thoát đầu tư ngày càng trầm trọng thêm. Hiệu quả đầu tư công giảm mạnh : hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR : đầu tư / tổng sản lượng) không ngừng tăng và ở mức 7 – 8 trong thời chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (từ 2007 đến nay), trong khi thời các chính phủ Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải (1991-2006), hệ số ở mức 3,5 – 4 ; năm 2010, riêng khu vực quốc doanh có hệ số ICOR vượt 10 trong khi khu vực ngoài nhà nước có hệ số chưa đến 5. 18 tập đoàn kinh tế và cả trăm công ti con đã làm thất thoát tài nguyên đất nước (tài nguyên thiên nhiên, công quỹ và tín dụng, cướp đất của nông dân), tích lũy của cải trong tay một đẳng cấp tư sản đỏ mà cuộc sống sa hoa, vô văn hóa và vô sỉ là một khiêu khích hỗn xược đối với nhân dân đang phải bươn chải với vật giá leo thang, sản xuất ngưng trệ 3.

* Luật đất đai đang tạo điều kiện cho các chính quyền địa phương lấy lại đất của nông dân (kể cả cưỡng bức bằng bạo lực). Chỉ từ năm 2006 (Nguyễn Tấn Dũng nắm quyền thủ tướng) đến năm 2010, hai trăm ngàn ha đất nông nghiệp đã bị thu hồi cho các dự án khu công nghiệp, biệt thự, sân golf. Các vụ Tiên Lãng, Văn Giang… tiếp diễn trong khi HN6 vẫn ngoan cố duy trì luận điểm “đất đai là của toàn dân”.

* Lạm chi : Từ năm 2007 đến nay năm nào chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng chi nhiều hơn rất nhiều so với số Quốc hội thông qua, năm 2007 là 31%, năm 2008 là 29%, năm 2009 là 46%. Năm 2010 chưa được kết toán nhưng theo tờ trình sơ bộ của Bộ Tài chính thì chi vượt 11%.
Trong tình hình ấy, lòng dân ra sao, ngay cả ông Nguyễn Phú Trọng cũng thừa biết. Theo những nguồn tin đáng tin cậy, trong cuộc họp Quân ủy Trung ương và gặp gỡ bốn chục tư lệnh sư đoàn, ông Trọng đã thông báo kết quả một cuộc thăm dò dư luận (không công bố) : tỉ lệ người dân vẫn tin tưởng ở “đảng và nhà nước” chỉ còn 30%. Sự thật còn đen tối hơn con số ấy vì nó là tổng của hai con số : 10% tin tưởng vào “lãnh đạo hiện nay”, 20% vào “lãnh đạo đã từ trần”. Chắc hẳn ông tổng bí thư đã vận dụng con số đáng sợ này để củng cố “tín điều” số một và duy nhất của bộ máy an ninh, quân sự : “còn đảng, còn chế độ, thì còn mình”.

“Bước đường cùng” dường như cũng là tâm trạng của 175 ủy viên trung ương tại Hội nghị 6, thúc đẩy họ “đoàn kết, thương yêu lẫn nhau”, “chữa bệnh, cứu người”. Nếu không, làm sao giải thích được những con số thoạt trông mâu thuẫn nhau một cách khó hiểu :

– trong những cuộc thăm dò mức tín nhiệm đối với ông Nguyễn Tấn Dũng : 4/14 ở Bộ chính trị, 40/175 ở Ban chấp hành Trung ương

– đến khi biểu quyết thông qua đề nghị “kỷ luật” (Bộ chính trị và cá nhân Nguyễn Tấn Dũng, đề nghị đã được Bộ chính trị “100% nhất trí”), thì 129 người (trên 175 ủy viên trung ương) bác bỏ.

*

Nhiều nhà bình luận đã để ý : Hội nghị Trung ương 6, các phát biểu và văn kiện đã công bố không hề đả động tới Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc đã bao trùm lên cuộc họp. Hội nghị giữa chừng, có tin đại sứ Bắc Kinh đến gặp một phó thủ tướng. Và trước ngày hội nghị khai mạc là cuộc gặp ở Nam Ninh của phó thủ tướng Tập Cận Bình, người sẽ thay thế Hồ Cẩm Đào trong vài ngày nữa, và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

16 chữ vàng và 4 tốt, nay thêm phương châm “cà vạt cùng màu” (ảnh Chính phủ)

Giới thân cận lãnh đạo ở Hà Nội không ngần ngại rỉ tai nhau, diễn dịch những động thái khác thường (ít nhất về thời điểm) ấy : bạn vàng phương bắc muốn giữ nguyên trạng quyền lực ở Hà Nội, và sẵn sàng cho vay 10 tỉ đô la nếu người anh em phương nam lún sâu vào cuộc khủng hoảng ngân hàng đã được báo trước. Thực hư không biết ra sao, chỉ biết thủ tướng Dũng đã hiên ngang tuyên bố ” (sẽ) không cần đến sự giúp đỡ của IMF “. Hiên ngang không kém là những phiên tòa xử tù nặng, những cuộc bắt bớ, bắt cóc những người mang tội duy nhất là lên án chính sách hung hãn của Trung Quốc. Mọi dấu hiệu đều chứng tỏ : trong sự bất lực và bất cập, trong tâm trạng bất an về sự tồn vong của chính mình, đẳng cấp cầm quyền đã muốn quay lưng với đường lối đoàn kết dân tộc, con đường duy nhất để tăng cường nội lực quốc gia, bảo vệ chủ quyền, khắc phục khủng hoảng,và thay vào đó, lún sâu vào con đường lệ thuộc.

Quá muộn rồi chăng ?

Những ai luôn luôn lạc quan cũng như những ai bi quan cố hữu đều có sẵn câu trả lời. Nhưng có lẽ còn quá sớm để có căn cứ chính xác.

Điều chắc chắn là xã hội Việt Nam không thể bị động ngồi chờ. Mấy năm qua, trong cuộc khủng hoảng của chế độ toàn trị, bất chấp mọi sự trấn áp, xã hội dân sự đã khẳng định sự tồn tại của mình, đã từng bước lên tiếng, đảm nhiệm chức năng xã hội công dân. Hơn lúc nào hết, sự trưởng thành của xã hội dân sự / công dân Việt Nam vừa là mục tiêu cấp bách của mọi người Việt Nam thiết tha với vận mệnh dân tộc, vừa là điều kiện để bảo vệ Tổ quốc, gìn giữ lãnh thổ và biển đảo, bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á, đưa đất nước vượt qua thử thách to lớn trước mắt.

Nguyễn Ngọc Giao

24.10.2012

1 Bằng chứng là theo chứng từ của ông Trần Bạch Đằng và của những cán bộ lão thành thuộc Ban nông thôn miền Nam : năm 1964, ông Nguyễn Chí Thanh, lúc đó là bí thư Trung ương cục Miền Nam, đã đưa ra chủ trương “phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để”. Theo lời ông Nguyền Thành (Mười) Thơ (bí thư Khu ủy Khu IX, rồi Chủ tịch Ban nông thôn miền Nam), Cụ Hồ đã gửi điện vào Nam, nói đại ý : “Bác nghe Chú T. (tức là Nguyễn Chí Thanh) có chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện triệt để. Bác khuyên chú đừng làm, làm là sai, dứt khoát sai thôi“. Sau đó, đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã viết điện trả lời : “Chúng tôi có chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng đất một cách toàn diện và triệt để. Bác cho là sai, không an tâm. Chúng tôi thi hành ý kiến Bác. Xin Bác yên tâm” và ra lệnh rút các đoàn đi thực nghiệm ở Bến Tre, Mỹ Tho và Bạc Liêu (xem Nguyễn Thành Thơ, Cuối đời nhớ lại, hồi ký, 2003, tr. 153-154, dẫn theo Đặng Phong : Kinh tế Miền Nam Việt Nam / Thời kỳ 1955-1975, nxb Khoa học xã hội, 2004, tr. 476-477). Tháng 2.2008, người viết bài này có dịp nêu câu chuyện ấy với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông “Sáu Dân” khẳng định chưa bao giờ Thành ủy Sài Gòn – Gia Định có bàn về dự án “cải cách ruộng đất” này. Ông cho rằng có lẽ tướng Thanh nêu lên như một ý kiến cá nhân trong lúc trao đổi với cán bộ phụ trách nông thôn. Cho dù như vậy, bản thân việc tướng Thanh còn nuôi dưỡng ý tưởng điên cuồng ấy (gần 10 năm sau cuộc cải cách ruộng đất “long trời lở đất” ở miền Bắc) tự nó cũng mang rất nhiều ý nghĩa. Liên hệ với cuộc “cải tạo công thương nghiệp” ở miền Nam năm 1978, hai mươi năm sau cuộc “đánh tư sản” ở miền Bắc với những tác động tai hại (cũng vẫn do một người được phân công trực tiếp chỉ đạo là ông Đỗ Mười), ông Võ Văn Kiệt trầm ngâm nhận xét : Một khuyết tật lớn của Đảng là sau mỗi sai lầm, không phân tích đến nơi đến chốn, còn nể nang cho qua, nên dễ lặp lại sai lầm.

2 Cụ thể hơn, đây là bảng số liệu do nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt tập hợp từ các thông tin của IMF, ADB và báo chí Việt Nam :

3 xem Vũ Quang Việt : Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008 : sai lầm về chính sách (Tạp chí Thời Đại Mới)

NHÂN DÂN

NHÂN DÂN
01:16 24 thg 10 2012Công khai11 Lượt xem 0

(Theo blog nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo)
Có thể thay quan, không thay được Nhân Dân
Thay tên nước, không thể thay Tổ Quốc
Nhưng sự thật khó tin mà có thật
Không thể thay quan dù quan đã thành sâu!

Quan thành dòi đục khoét cả đất đai
Vòi bạch tuộc đã ăn dần biển đảo
Đêm nằm mơ thấy biển Đông hộc máu
Những oan hồn xô dạt tận Thủ Đô

Những oan hồn chỉ còn bộ xương khô
Đi lũ lượt, đi tràn ra đại lộ
Những oan hồn vỡ đầu gãy cổ
Ôm lá cờ rách nát vẫn còn đi

Đi qua hàng rào, đi qua những đoàn xe
Đi qua nắng đi qua mưa đi qua đêm đi qua bão
Những oan hồn không sức gì cản nổi
Đi đòi lại niềm tin, đi đòi lại cuộc đời

Đòi lại những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi
Đòi lại ánh mặt trời cho tái sinh vạn vật…
Tôi tỉnh dậy thấy mặt tràn nước mắt
Nước mắt của Nhân Dân mặn chát rót vào tôi.

Ôi những ông quan không Dân trên chót vót đỉnh trời
Có nhận ra tôi đang kêu gào dưới đáy
Cả một tỷ tôi sao ông không nhìn thấy?
Vì tôi vẫn là người mà ông đã là sâu!…

10.2012
NGUYỄN TRỌNG TẠO

LIÊN KHÚC HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG

LIÊN KHÚC HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG
18:24 15 thg 10 2012Công khai6 Lượt xem 0

(GS Tương Lai đa tài. Bái phục!)
Theo Posted by basamnews on 15/10/2012

Dựa theo ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc

GS Tương Lai

14-10-2012

Con kiến mà leo cành đa

Leo phải cành cụt leo ra leo vào

Con kiến mà leo cành đào

Leo phải cành cụt leo vào leo ra

Rồi liều leo tận Cu Ba

Giảng dăm ba chữ, đồng ra đồng vào

Mác cùn lê gãy chẳng sao

Phiđen nghe hết thở phào, bắt tay

Rằng hay thì thật là hay

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào

Đâu có phải chuyện tầm phào

Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia

Cứ trong thực tế mà suy

Lý luận hổ lốn chẳng ghi được gì

Thôi thì thôi, cũng chiều lòng

Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra

Bảo Raun lấy xì gà,

Thay tiền nhuận bút làm quà cho dzui

Nghĩ đời mà ngán cho đời

Đa đoan chi lắm cho trời đất ghen

Tiếc thay nước đã đánh phèn

Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần

Braxin bà Tổng ngại ngần

Đã xoay đến thế còn vần chưa tha

Lỡ từ lạc bước bước ra,

Cái thân liệu những từ nhà liệu đi

Rằng sao chẳng ý tứ gì

Cho tao mất mặt tội thì tại ngươi

May mà có chuyến khứ hồi

Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma

Phải rằng nắng quáng đèn lòa

Buôn xa một chuyến hóa ra bẽ bàng

Ngỡ rằng Hội nghị Trung ương

Có vốn, có liếng coi thường được a!

Trăm năm năm trong cõi người ta,

Chữ Sang, chữ Dũng vốn là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Lạ gì lợi, ích, riêng, công

Tự phê sao được, phải xông vào đòi

Mặc cho ông tổng đôi hồi

Diễn văn diễn võ đứng ngồi không yên

Duyên đã may cớ sao lại rủi

Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang?

Vì đâu nên nỗi dở dang?

Nghĩ mình, mình lại cay càng thêm cay

…………

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán

Chết đuối người trên cạn mà chơi

Lò cừ nung nấu sự đời

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

Mười lăm buổi trung ương nhóm họp

Đít thì ngồi, trí để đâu đâu

Đường nước bước, sao cho êm ả

Đảng có còn, mình mới có ăn

Giấu mình, liều thuốc vạn năng

Hăng lên, cửa nát nhà văng tức thì

Cứ lắc gật sao cho đúng phép

Ghế vẫn còn, phép nước tính sau

Trọng Hùng như Rứa chẳng mau thì chầy

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc

Lớp cùng thông như thốc buồng gan

Bệnh trần đòi đoạn tân toan

Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da

Gót danh lợi bùn pha sắc xám

Mặt phong trần nắng rám mùi dâu

Nghĩ thân phù thế mà đau

Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê

Nền lý luận nhện giăng cửa mốc

Sách mác lê gián nhấm canh dài

Đất bằng bỗng rắc chông gai

Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương

Mồi phú quý dử làng thoái hóa

Bả vinh hoa lừa gã gian manh

Giấc nam kha khéo bất bình

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!

….

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Trọng Sang Hùng Dũng ai sầu hơn ai?

Quyền họa phúc chúng tranh mất cả

Chút tiện nghi chẳng trả phần ai!

Cái quay búng sẵn trên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm

Mùi tục lụy đường kia cay đắng

Vui chi mà đeo đẳng cơ duyên

Cái gương nhân sự chiền chiền

Chở thuyền dân đẩy, lật thuyền cũng dân

Thế là mất sạch lòng dân

Bởi chưng kết quả về dần số không

Đa mang chi nữa đèo bòng

Vui gì thế sự mà mong nhân tình

Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh

Thử xem con tạo gieo mình nơi nao.

Những trích lục đáng lưu ý

Những trích lục đáng lưu ý
06:16 14 thg 10 2012Công khai6 Lượt xem 0

Triết gia Pháp J.J. Rousseau (1712 – 1778) trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” nêu:

“Quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia nó ra, kiểm soát nó”.

Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật

Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ Thomas Jefferson (1743-1826) hoàn thiện tiếp:

“Sự phân chia các quyền lực đó theo một cách thức sao cho chức năng của một nhánh chính quyền trong một vấn đề cụ thể thì bị giới hạn bởi chức năng của một nhánh khác có thẩm quyền về cùng vấn đề ấy hoặc về một vấn đề khác có liên quan. Thường được gọi là: “các biện pháp kiểm soát và đối trọng quyền lực lẫn nhau” – “checks and balance.” Về cốt lõi, đây là một hệ thống nằm ngay bên trong chính quyền nhằm đảm bảo tính trách nhiệm của chính quyền, được gọi là kiểm tra, giám sát bên trong. Vì sự kiểm tra này tạo ra một cơ chế mặc nhiên ai nắm và được phân công sử dụng quyền lực nhà nước cũng phải bị kiểm tra, theo nguyên tắc phòng ngừa, còn cơ chế kiểm tra được tiến hành từ bên ngoài hầu như chỉ được tiến hành một khi đã có hậu quả xảy ra”…

Đề cương Cải cách giáo dục

Đề cương Cải cách giáo dục
06:26 12 thg 10 2012Công khai4 Lượt xem 0

Hoàng Tụy

(Theo Tia Sáng)

Đã đến lúc chúng ta phải có sự lựa chọn: hoặc là tiếp tục con đường cũ, trong nền giáo dục lạc hướng, ngày càng tụt hậu so với thế giới, hoặc là cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặc cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển.
Từ lâu giáo dục đã trở thành chỗ nghẽn lớn nhất trong sự phát triển của đất nước. Vì vậy cải cách giáo dục toàn diện và triệt để theo tinh thần các nghị quyết của TƯ là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống.

Sau đây là bản kiến nghị đề cương cải cách giáo dục phục vụ yêu cầu phát triển của đất nước trong vài mươi năm tới. Bản đề cương gồm ba phần chính:
I. Quan điểm tổng quát, cũng tức là triết lý cơ bản của giáo dục mới.
II. Những vấn đề chính và cấp bách cần giải quyết.
III. Lộ trình và tổ chức thực hiện.

I. Quan điểm tổng quát

Đây có thể coi là vấn đề của mọi vấn đề, nó là cái gốc chi phối từ sứ mạng, phương châm cho đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục.

Trong thế giới hiện đại, yêu cầu hội nhập quốc tế đặt ra ngày càng gay gắt cho mọi dân tộc, nếu ta chỉ muốn xây dựng giáo dục theo con đường riêng của mình, thì dù với những lý tưởng đẹp đẽ và dân khí rất cao như trong thời hoàng kim của cách mạng, sớm muộn chúng ta cũng không tránh khỏi bị đào thải trong cuộc cạnh tranh quốc tế quyết liệt. Huống hồ sau 1975 đất nước đã bước sang một giai đoạn lịch sử mới, có biết bao vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội phức tạp trước đây chưa bao giờ gặp. Hơn nữa sau khi giành được độc lập, thống nhất, ta xây dựng lại đất nước trong bối cảnh cả nhân loại chuyển lên nền văn minh trí tuệ. Nhiều cơ hội mới mở ra từ đây cho những dân tộc giàu tiềm năng như chúng ta, đồng thời đất nước cũng đối mặt với những thách thức to lớn không dễ gì vượt qua nếu không đủ dũng khí chia tay với những tập quán, cách suy nghĩ, làm ăn, ứng xử, từng là nếp sống quen thuộc một thời.

Cho nên ngày nay hơn bao giờ hết, không gì cản trở sự tiến bộ của xã hội hơn thái độ đóng kín, thiếu cởi mở với cái mới, e ngại thay đổi, chủ quan tự mãn, không muốn, không dám nhìn thẳng vào những yếu kém của mình mà chỉ say sưa tự ru ngủ với quá khứ vẻ vang và tự dối mình bằng những thành tích tưởng tượng hoặc giả tạo.

Có thể nói đã sang thế kỷ 21 nhưng giáo dục của ta vẫn còn giữ khá nhiều quan niệm cổ hủ thời phong kiến nho giáo, thậm chí thời trung cổ Châu Âu. Nặng tính giáo điều kinh kệ, nhằm biến con người thành một phương tiện – dù là phương tiện để thực hiện những lý tưởng cao quý – hơn là hoàn thiện con người như một chủ thể tự do. Đã đến lúc cần nhìn thẳng vào thực tế để nhận rõ những hệ luỵ tiêu cực của tình hình đó đối với tương lai dất nước. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng cứ áp đặt một ý thức hệ định sẵn vào nội dung và phương pháp giáo dục thì sẽ đào tạo được những con người khuôn theo ý thức hệ đó. Kinh nghiệm thực tế khắp nơi trên thế giới đều cho thấy ngược lại: sự mâu thuẫn xung khắc giữa giáo lý trong nhà trường với thực tế phũ phàng ngoài xã hội thường là nguyên nhân phát sinh và nuôi dưỡng gian dối, đạo đức giả và bạo lực, cuối cùng đưa đến bất ổn trầm trọng trong xã hội.

Lịch sử các nước Phương Tây cho thấy chỉ sau khi thế tục hoá nhà trường, tách nhà trường ra khỏi Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo thì khoa học, kỹ thuật hiện đại mới có điều kiện phát triển mạnh mẽ, đồng thời Nhà Thờ không vì thế mà mất vị trí tinh thần của nó trong xã hội. Đối với chúng ta, mà mục tiêu tối thượng của dân tộc là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tưởng cũng cần một giải pháp tương tự cho giáo dục mới có thể mở đường chấn hưng đất nước. Cuộc sống từ lâu đã đòi hỏi nhà trường phải thoát khỏi chế độ bao cấp tư tưởng với những ràng buộc giáo lý cứng nhắc đang có tác dụng kìm hãm thay vì khai sáng trí tuệ 1. Thay vào đó, cần đề cao tính nhân văn: rèn luyện nhân cách, phẩm chất trí tuệ, năng lực cảm thụ, ý thức cộng đồng, như trong mọi nhà trường tiên tiến trên thế giới. Đó mới chính là dạy người theo nghĩa cao quý nhất. Một khi sản phẩm của nhà trường là những con người tự do, với nhân cách và phẩm chất hướng theo hệ thống giá trị phổ quát của nhân loại thì cái mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh mới có cơ may hiện thực. Bằng không, nếu chỉ chăm chăm đào tạo con người theo khuôn mẫu đúc sẵn thì cái mục tiêu ấy mãi mãi xa vời. Bởi lẽ trong một thế giới, một thời đại, đầy biến chuyển khó lường mà thế hệ chúng ta đang trải qua, mọi khuôn mẫu đúc sẵn đều không thể thích nghi được.

Giáo dục hiện đang đứng ở ngã ba đường, giống như kinh tế những năm giữa thập kỷ 80. Nếu lúc bấy giờ ta cứ kiên trì đường lối kinh tế tập trung bao cấp và tiếp tục dị ứng với cơ chế thị trường như hồi 1968, khi đó VN đã cùng với cả phe xã hội chủ nghĩa lên án mạnh mẽ chủ nghĩa xã hội thị trường Tiệp Khắc 2 , thì không biết điều gì đã xảy ra. May thay, nhờ nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống với tinh thần trách nhiệm cao trước nhân dân, chúng ta đã kịp thời nhận ra nguồn gốc bế tắc của xã hội và đã có can đảm thay đổi tư duy, chấp nhận chính cái cơ chế thị trường ngày nào đã bị chúng ta bác bỏ. Đường lối đổi mới nhờ thế đã ra đời, cứu đất nước khỏi sự sụp đổ nhãn tiền. Đó là bài học sâu sắc.

Ngày nay, sau mấy chục năm giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng triền miên bởi các ràng buộc ý thức hệ cứng nhắc, đã đến lúc chúng ta phải có sự lựa chọn: hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước trong nền giáo dục lạc hướng, ngày càng tụt hậu so với thế giới, hoặc là cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặc cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển.

Đương nhiên đây là công việc không hề dễ dàng vì phải đoạn tuyệt với nhiều quan niệm, cách sống và nếp nghĩ đã ăn sâu trong tâm khảm nhiều thế hệ từ thời chiến đấu giành độc lập thống nhất. Nhưng là giải pháp trước sau gì cũng phải làm, mà càng để chậm trễ thì đất nước càng hụt hơi, càng bị cô lập và khó thích ứng kịp với những biến chuyển bất ngờ trong thế giới văn minh ngày nay.

II. Những vấn đề chính cần giải quyết trong cuộc cải cách giáo dục

Sau khi đã xác định quan điểm tổng quát về sứ mạng cơ bản của giáo dục, mọi vấn đề cụ thể về tổ chức giáo dục, nội dung chương trình học các cấp, phương pháp giáo dục, v.v . đều phải xem xét giải quyết trên cơ sở quan điểm đó. Bản đề cương này không đi sâu vào các vấn đề cụ thể có tính chất kỹ thuật là phần việc của các chuyên gia sau này mà chỉ tập trung nêu lên những định hướng lớn làm nền tảng và khuôn khổ giải quyết các vấn đề cụ thể ấy.

Có 4 vấn đề lớn sau đây cần cấp bách giải quyết theo định hướng hội nhập tích cực vào trào lưu chung của thế giới văn minh.

Cuộc sống đã dạy chúng ta quá đủ rằng cách học và thi như hiện nay chẳng những gây lãng phí lớn về công sức, tiền của, thời gian, mà còn khuyến khích phát triển sự dối trá, thói đạo đức giả, là những thứ hư hỏng cần tránh trước hết trong nhà trường.

1. Cải thiện cơ bản chính sách đối với người thầy, giải tỏa nghịch lý lương, để nhà giáo ở mọi cấp an tâm làm việc, toàn tâm toàn ý với trách nhiệm cao cả của mình.

Có thể nói chính sách đối với người thầy là một trong những điểm khác biệt cơ bản của giáo dục VN so với thế giới và là nguyên nhân trực tiếp quan trọng nhất làm tha hóa giáo dục.
Có một nhà khoa học lớn nước ngoài tâm huyết với VN khi được hỏi về điều gì cần thay đổi cấp bách nhất để chấn hưng giáo dục, đặc biệt là đại học, đã không chút ngần ngại nói ngay đó là chế độ lương kỳ quặc không thấy đâu trong thế giới văn minh nhưng đã tồn tại dai dẳng ở VN từ hàng chục năm nay. Một chế độ lương biểu thị không gì khác hơn là sự khinh miệt đối với lao động giáo dục và khoa học, trái hẳn với chủ trương tôn vinh nhà giáo đã được lãnh đạo khẳng định lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần suốt thời gian qua.

Với đồng lương thấp đến mức khó tưởng tượng, đương nhiên nhà giáo và các quan chức giáo dục đều phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn bệnh trầm kha đã ra sức tàn phá giáo dục 3. Chúng ta nói nhiều đến bệnh giả dối, gian trá, thành tích ảo, v.v. nhưng làm sao chống được các bệnh ấy để có một nền giáo dục trung thực, lành mạnh, nói chi đến hiện đại, nếu cái nguyên nhân gây ra các bệnh ấy nằm ngay trong cơ chế, nói cách khác nằm ngay trong khuyết tật hệ thống của giáo dục ?

Sự thật, nhờ xoay xở đủ mọi cách hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay trái với lương tâm, phần lớn nhà giáo, nhất là quan chức giáo dục, nay đã có mức sống không đến nỗi quá tệ, thậm chí một bộ phận nhỏ còn có thu nhập khá. Song cái giá phải trả thật quá đắt. Những giải pháp chữa cháy gần đây theo kiểu “kế hoạch 3” hồi những năm 80 thế kỷ trước, hay cho phép nhiều cơ sở giáo dục vượt rào để xử lý từng trường hợp riêng lẻ về lâu dài rất nguy hiểm, chỉ gây thêm rối loạn, dẫn đến bất công và tiêu cực ngày càng tệ hại hơn.

Điều không may là giải quyết vấn đề cốt tử này cực kỳ khó vì căn bệnh từ lâu đã thành một thứ ung thư của cả xã hội, chứ không riêng gì của giáo dục, lại gắn liền chặt chẽ với quốc nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng chóng mặt. Trước mắt chưa thể hy vọng có thể chữa trị nhanh chóng cái ung thư này, cho nên giáo dục phải tìm mọi cách tự cứu lấy mình trong phạm vi có thể, may ra còn nêu gương cho các ngành khác để tiến dần đến một giải pháp chung. Theo tính toán của nhiều chuyên gia, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng dù trong phạm vi cả nước còn khó khăn thì ngay trong nội bộ ngành giáo dục, vẫn có thể rà soát lại cơ chế tài chính, kiên quyết bỏ hay giảm bớt mọi khoản chi tiêu không hiệu quả, trên cơ sở đó tăng lương, bảo đảm lương đủ sống và dần dần trở thành thu nhập chính của mỗi người, từ đó lập lại kỷ cương, đạo đức trong giáo dục.

Trong một xã hội mà đời sống kinh tế bị thao túng nặng nề bởi các “nhóm lợi ích”, ai cũng thấy đây là việc vô cùng khó, tuy khả thi về điều kiện vật chất khách quan nhưng chắc chắn sẽ vấp trở ngại cực kỳ lớn. Biết thế, song giáo dục là lĩnh vực cần bảo vệ trong sạch nhất, nếu không cương quyết làm bây giờ mà cứ trì hoãn mãi thì sẽ ngày càng khó hơn và sẽ chẳng bao giờ có hy vọng trả lại lòng tự trọng cho giáo dục, chẳng bao giờ xây dựng được một nền giáo dục lành mạnh, trung thực, hiện đại.

2. Cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục phổ thông và dạy nghề
Hệ thống giáo dục THPT hiện tại có hai lãng phí lớn.

Lãng phí thứ nhất là hàng năm có một số lớn thanh niên tốt nghiệp THPT không qua lọt cánh cửa ĐH, CĐ, phải bước vào thị trường lao động, chịu bằng lòng với một việc làm đơn giản (không cần tay nghề), dù đã tốn 12 năm đèn sách, hoặc phải chấp nhận vào học nghề ở một trường trung cấp kỹ thuật vốn chỉ đòi hỏi trình độ THCS. Trong khi đó vì thiếu công nhân lành ghề và kỹ thuật viên thông thạo nên công nghiệp phụ trợ không phát triển nổi, sau mấy thập kỷ xây dựng công nghiệp mà cuối cùng chỉ có lắp ráp, xuất khẩu tài nguyên thô, thì làm sao giàu được. Tình trạng lãng phí đó vừa thiệt hại cho xã hội vừa tạo mầm mống bất ổn trong thanh niên.

Lãng phí lớn thứ hai, khó thấy hơn, nhưng nghiêm trọng hơn, là cách học và thi quá lạc hậu ở THPT gắn liền với thói hư học cổ lỗ, hoàn toàn không chú ý các đặc điểm và đòi hỏi của lứa tuổi, làm phí sức học sinh một cách vô ích, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, tâm lý, đến tương lai nghề nghiệp của một số khá đông, lại rất tốn kém cho gia đình và xã hội. Trẻ em ta học hết 12 năm THPT thì mệt nhoài, lên đại học và trên nữa thường mau đuối sức khi đua tranh với bạn bè các nước mà ở đó tuổi thiếu niên vừa được học vừa được chơi, chơi mà học, để dành sức sau này có thể tiến lên xa vào những giai đoạn quyết định của cuộc đời.

Muốn hội nhập quốc tế thành công, tiến lên một nền đại học thật sự hiện đại, trước hết phải từ bỏ lối nghĩ đó, khiêm tốn học hỏi, tuân thủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, điều gì muốn làm khác thì cần suy nghĩ cẩn trọng và có lý do thật xác đáng.

Để khắc phục những bất hợp lý trên cần cải tổ hệ thống giáo dục để sau THCS có hai nhánh rẽ: một số lớn học sinh (khoảng 2/3) sẽ vào trung học hướng nghiệp, chỉ 1/3 vào trung học phổ thông. Học xong trung học hướng nghiệp có thể đi ngay vào thị trường lao động tìm một việc làm có nghề nhưng nếu muốn cũng có thể học lên cao hơn (cao đẳng hay đại học) vì chương trình học, ngoài phần hướng nghiệp, vẫn bảo đảm phần văn hoá cơ bản cần thiết. Còn trung học phổ thông có nhiệm vụ chủ yếu chuẩn bị đầu vào cho đại học. Theo hướng đó cần phát triển mạnh trung học hướng nghiệp, đồng thời cấu trúc lại chương trình và cách học ở trung học phổ thông cho phù hợp với nhiệm vụ của cấp học này. Cụ thể là bãi bỏ cách phân ban bất cập hiện nay để tổ chức lại việc học như ở nhiều nước tiên tiến, về mỗi môn học đều có một chương trình bình thường và một hoặc nhiều chương trình nâng cao, theo nhiều mức độ nâng cao khác nhau, cho phép học sinh được tự do lựa chọn chương trình nào hợp sức và hợp sở thích, đồng thời dễ dàng điều chỉnh sự lựa chọn khi thấy cần thiết. Với cách học đó học sinh cả trung học hướng nghiệp và trung học phổ thông đều không bị quá tải, vì được học sâu những môn ưa thích và không phải học quá kỹ nhiều thứ mà sau này sẽ chẳng bao giờ cần đến. Đó mới là cách thực tế và hiệu quả giảm tải ở cấp học phổ thông, chứ không phải như hiện nay, chương trình bị kẹt giữa hai yêu cầu mâu thuẫn: vừa giảm tải vừa không hạ thấp chất lượng. Hơn nữa về những môn hợp với xu hướng sở thích thì học sinh có cơ hội được học đủ sâu để đến khi tốt nghiệp có đủ hiểu biết tìm được việc làm có nghề, và nếu xuất sắc thì khi học tiếp lên ĐH hay CĐ có thể học vượt lớp, tiết kiệm thời gian. Như thế tránh được nhiều sự lãng phí cho cả xã hội lẫn cho từng cá nhân học sinh. Tuổi 15-18 là tuổi vàng, nhiệm vụ của nhà trường là tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển đến mức tối đa của mình, chứ không phải chỉ nhằm bảo đảm cho mọi cá nhân môt mức tối thiểu đồng loạt như cách dạy hiên nay ở THPT 4.

3. Thay đổi căn bản cung cách học và thi, xoá bỏ thi cử nặng nề, tốn kém mà kém hiệu quả

Đồng thời với cải tổ hệ thống giáo dục, thì cách học, cách thi cử và đánh giá cũng phải thay đổi tận gốc. Đặc biệt cần đổi mới căn bản tư duy thi tốt nghiệp và tuyển sinh. Trong một nhà máy làm ra một sản phẩm gồm nhiều bộ phận riêng rẽ (môđun) ghép lắp lại, người ta phải kiểm tra kỹ chất lượng khi sản xuất từng bộ phận, đến khi lắp ráp chỉ kiểm tra chất lượng lắp ráp. Việc học và thi trong nhà trường cũng vậy: mỗi môn, mỗi học phần như một môđun, học môn nào, học phần nào phải kiểm tra, thi nghiêm túc ngay môn đó, phần đó, đến cuối cấp không thi lại từng môn, từng học phần nữa, mà chỉ phải làm một tiểu luận hoặc qua một kỳ thi nhẹ nhàng, với mục đích chủ yếu kiểm tra trình độ văn hóa phổ quát (giống như kiểm tra chất lượng lắp ráp các môđun trong nhà máy). Hơn nữa, kỳ thi nhẹ nhàng này cũng có thể không bắt buộc cho mọi người mà có thể coi như một kỳ thi sơ tuyển (ST) vào ĐH, CĐ chỉ bắt buộc đối với những ai muốn vào học ĐH, CĐ. Còn việc tuyển sinh vào ĐH, CĐ thì cần trả lại cho từng trường. Mỗi trường tuyển sinh căn cứ vào kết quả thi (ST) và học bạ hoặc qua một kỳ thi tuyển nếu trường nào có yêu cầu đào tạo đặc biệt 4.

Cách học và thi như thế khác hẳn cách học và thi hiện nay là dồn tất cả sự kiểm tra vào cuối cấp trong một kỳ thi tốt nghiệp mà nhiều người cho là thi vờ vì chỉ để loại vài phần trăm thí sinh, là những em quá kém không cần thi cũng có thể loại được theo học bạ. Có ý kiến cho rằng tuy thi vờ nhưng là cần thiết vì tâm lý học sinh là có thi thì mới học tử tế5. Té ra là vậy: đất nước còn rất nghèo mà phải tốn kém hàng chục nghìn tỉ mỗi năm tổ chức thi chỉ để dọa và gây áp lực buộc học sinh phải học. Cùng một luồng ý kiến đó nhiều quan chức giáo dục cho rằng trong điều kiện hiện thời, thầy cô giáo chịu quá nhiều áp lực không lành mạnh từ phía xã hội nên rất khó bảo đảm việc học và thi nghiêm túc từng môn, từng học kỳ, ở từng lớp, từng địa phương được. Cho nên không còn cách nào khác là phải thi tôt nghiệp, dù chỉ là thi vờ. Nói thế khác nào bảo một nền giáo dục trung thưc là ngoài tầm với của xã hội ta hiện nay – thật lạ lùng và xót xa, vì một nền giáo dục trung thực đâu có gì quá khó, nó đã từng có ở cả hai Miền Bắc và Nam suôt từ 1945 đến 1975. Một ý kiến xác đáng hơn là quy một phần nguyên nhân phát triển gian trá trong thi cử là do chương trình quá nặng, mà thi tốt nghiệp lại quá căng thẳng: thi viết gần hết các môn trong thời gian chỉ mấy ngày, tiềm ẩn rủi ro học tài thi phận, khiến một số học sinh dễ nảy ra tư tưởng đối phó bằng thủ đoạn gian dối, cầu cứu đến cả sự giúp sức của phụ huynh và thầy cô giáo. Đúng là chương trình quá tải cũng là một vấn đề, nhưng không thể giảm tải theo kiểu cắt giảm lung tung như chúng ta đã làm lâu nay mà chủ yếu phải cải tổ cả hệ thống giáo dục phổ thông như đã trình bày ở trên, chấm dứt cách giáo dục đồng loạt, quá nặng với số đông lại quá nhẹ với số có khả năng. Đông thời để bảo đảm tính trung thực, trước hết phải thực hiện kiểm tra, thi học kỳ nghiêm túc, nghĩa là trung thực, ngay từ những lớp nhỏ nhất chứ không đợi đến cuối cấp. Khi đó mới có thể thi tốt nghiệp nhẹ nhàng, chỉ cốt để kiểm tra chất lượng tổng hợp, tức là trình độ văn hóa phổ quát, hoặc thậm chí chỉ xét kết quả học tập theo học bạ để cho tốt nghiệp mà không phải thi.

Điều quan trọng ít người chú ý là lối thi tôt nghiệp và tuyển sinh như hiện nay tạo ra áp lực tâm lý và tinh thần rất lớn, đặt thí sinh trước những thử thách vượt quá khả năng chịu đựng của các em. Trong một xã hội mà xung quanh quá nhiều dối trá, rất hiếm trung thực, nếu đặt thiếu niên trước những thử thách trung thực quá sức thì cũng chẳng khác nào đưa trẻ ra phơi nhiễm giữa một vùng đang dịch bệnh, làm sao trẻ tránh không bị nhiễm. Cho nên chẳng lạ gì kỳ thi nào cũng có chuyện quay cóp, gian dối, mà những chuyện đã bị phanh phui chỉ là phần nổi của tảng băng. Cuộc sống đã dạy chúng ta quá đủ rằng cách học và thi như hiện nay chẳng những gây lãng phí lớn về công sức, tiền của, thời gian, mà còn khuyến khích phát triển sự dối trá, thói đạo đức giả, là những thứ hư hỏng cần tránh trước hết trong nhà trường.

4. Chuyển mạnh giáo dục đại học theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về cả nội dung, phương pháp và tổ chức quản lý

Chỉ nhìn qua hệ thống đại học VN hiện nay cũng đã thấy cảnh tượng lộn xộn, rất khác mọi nơi trên thế giới: trường nào, kiểu gì, cũng gọi là đại học, trong một đại học lại có thể có nhiều đại học thành viên, dịch ra tiếng Anh tất cả đều là university, không phân biệt university với school, ai muốn hiểu ra sao thì hiểu 6. Đành rằng đây chỉ là vấn đề tên gọi, nhưng nó cũng phản ảnh một nét riêng “không giống ai” của đại học VN. Đi sâu hơn vào hoạt động cụ thể của đại học càng thấy rõ sự tụt hậu bắt nguồn từ lối suy nghĩ chủ quan tự cho mình có thể tự biên tự diễn, bất chấp thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Cho nên muốn hội nhập quốc tế thành công, tiến lên một nền đại học thật sự hiện đại, trước hết phải từ bỏ lối nghĩ đó, khiêm tốn học hỏi, tuân thủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, điều gì muốn làm khác thì cần suy nghĩ cẩn trọng và có lý do thật xác đáng. Chúng ta đang rớt lại sau đuôi thiên hạ, tại sao cứ muốn làm độc đáo, khác người để mãi mãi thất bại ? Ngay đến một nước có truyền thống khoa học, giáo dục lâu đời như Pháp mà cách đây 30 năm khi đánh giá nền đại học lúc ấy của họ nhà khoa học lỗi lạc Pháp L. Schwartz cũng đã từng lên tiếng: “nếu Pháp là nước duy nhất trên thế giới còn muốn giữ lại mãi một số quan niệm cũ về giáo dục đại học thì hoặc chúng ta đúng và nền đại học của ta phải là tiên tiến và được ngưỡng mộ nhất thế giới – điều rõ ràng không phải vậy – hoặc chúng ta sai và cần phải thay đổi.” Cho hay yêu cầu cùng đi con đường chung với cả thế giới không phải chỉ đặt ra cho các nước kém phát triển.

Cái khó là trước đây hệ thống giáo dục đại học của ta phỏng theo mô hình giáo dục đại học Liên Xô cũ. Đến khi nhận rõ mô hình đó không còn thích hợp mà phải thay đổi theo yêu cẩu mới của công cuộc phát triển đất nước, ta lại không có những nhà quản lý đủ hiểu biết chuyên nghiệp cần thiết và nắm vững tính hệ thống nên cứ thay đổi nham nhở, chắp vá, cuối cùng biến giáo dục đại học thành một hệ thống đầu Ngô mình Sở, chẳng giống ai cả. Đã thế mà từ 2006 lại mạo hiểm lao theo chiến lược tân tự do trong phát triển giáo dục, cổ suý giáo dục là hàng hóa, phát triển mạnh trường tư vị lợi, cổ phần hóa đại học công, v.v. 7 Trong khi đó, mọi vấn đề từ chế độ tiền lương, chính sách sử dụng tài năng, từ việc đào tạo sau cử nhân, phương thức đào tạo liên ngành, cho đến tuyển dụng, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư, bảo đảm tự chủ đại học, xây dựng môi trường nghiên cứu khoa học, tự do học thuật, tất cả đều ở trạng thái cổ hủ, lạc hậu. Chẳng khác nào đường sá thì lầy lội gồ ghề, đầy ổ trâu ổ gà, lại chủ trương nhập xe hơi xịn phóng nhanh cho oai. Chính cái tâm lý chưa biết đi đã đòi chạy, cái lối học kinh nghiệm thế giới theo kiểu thầy bói sờ voi đó là nguồn gốc tất cả những yếu kém, khó khăn của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam dù đã tốn không ít công sức xây dựng qua mấy thập kỷ.

Công bằng mà nói, từ vài năm lại đây, sau nhiều bài học thất bại, nhận thức cũng đã có ít nhiều thay đổi, nhờ đó đã có những cố gắng tich cực hướng tới hội nhập quốc tế. Tuy nhiên kết quả còn rất hạn chế, do sức ỳ quán tính của bộ máy quản lý còn nặng, do tư duy vẫn luẩn quẩn trong những giáo điều dai dẳng và những ràng buộc thể chế ngặt nghèo. Rõ nhất là về mục tiêu, sứ mạng đại học, về phương thức đào tạo, về quyền tự chủ đại học và tự do học thuật, nghĩa là về các vấn đề then chốt nhất của đại học hiện đại, quan niệm chung của chúng ta còn rất mơ hồ, lệch lạc, có mặt lạc hậu nửa thế kỷ.

Cho nên thách thức lớn nhất của giáo dục hiện nay là hiện đại hóa đại học, đưa đại học hội nhập thật sự vào con đường phát triển chung của thế giới. Hãy dứt khoát rủ bỏ những gì lạc hậu, trì trệ còn níu kéo chúng ta để chuyển mạnh theo mô hình giáo dục đại học Hoa Kỳ là mô hình được thừa nhận tiên tiến và đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. Có thể nói thành bại của cuộc cải cách giáo dục một phần quyết định tùy thuộc tiến trình hiện đại hóa đại học này.

III. Lộ trình và tổ chức thực hiện

Cải cách giáo dục cần phải được thực hiện kiên quyết, khẩn trương, nhưng không vội vã. Sau khi Trung Ương và Quốc Hội thảo luận và thông qua đề cương cải cách nêu lên phương hướng chính cùng với những khâu mấu chốt cần giải quyết trong cải cách, thì cần thành lập Ủy Ban Quốc Gia Chỉ Đạo Cải Cách Giáo Dục, bao gồm những người có năng lực và có tâm huyết, vừa có tầm nhìn vừa thật sự quan tâm, lo lắng cho giáo dục. Ủy ban này sẽ vạch ra lộ trình và kế hoạch thực hiện cụ thể để có thể hoàn tất công cuộc cải cách sau khoảng một thập kỷ. Trước mắt để thực hiện được cải cách ở những khâu cấp bách phải tổ chức nghiên cứu những vấn đề cụ thể như chương trình và sách giáo khoa cho các cấp phổ thông, phương pháp giảng dạy ở các cấp, đổi mới thi cử, v.v. theo quan điểm tư duy mới. Biết rằng trong hiện tình đất nước có vô vàn khó khăn, nhưng đây cũng là thời cơ để giáo dục có thể lột xác, từ một kiểu giáo dục nặng tính giáo điều, lạc hậu và lạc điệu với thời đại và thế giới, tiến lên một nền giáo dục khai sáng, lành mạnh, trung thực, hiện đại, phù hợp xu thế tiến hóa chung của nhân loại và đáp ứng lợi ích tối cao của đất nước.

———-
Chú thích:

1 : Một trong những nguyên lý bất khả tranh luận chỉ đạo nền giáo dục trước đây một thời là giáo dục phải tuyệt đối phục tùng chính trị, trong nhà trường chính trị là thống soái, trong hai vế “hồng” và “chuyên” thì “hồng” là tiên quyết. Mặc dù qua cọ xát thực tế nguyên lý ấy đã buộc phải nới lỏng nhiều, nhưng nó vẫn còn ảnh hưởng đậm nét trong nhiều khâu quan trọng về nội dung, phương pháp giáo dục, về rèn luyện đạo đức, về cách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, cất nhắc cán bộ.

2 : Do Dubcek, nhà lãnh dạo Tiệp Khắc khi ấy, khởi xướng. Ông này sau đó đã bị lật đổ trong một cuộc can thiệp quân sự mạnh mẽ của Liên Xô mà hồi ấy cả khối xã hội chủ nghĩa đều ủng hộ.

3 : Cái phần thu nhập thêm ngoài lương đó thật ra cũng từ ngân sách hoặc từ đóng góp của người học, nhưng bắt buộc nhà giáo phải mất sức làm thêm nhiêu việc không hợp lý (chủ yếu là dạy thêm, dưới nhiều hình thức). Thành ra thay vì trả lương đủ một cách đương hoàng thì người ta chia lương ra thành hai phần: một phần nhỏ, goi là lương chính thức, quy định chặt chẽ, còn phần kia (cũng từ ngân sách hoặc đóng góp của dân) thì tùy thuộc sự xoay xở của mỗi người – chức càng cao khả năng và phạm vi xoay xở càng lớn.

4 : Gần đây có nhiều ý kiến đề nghị rút thời gian trường phổ thông xuống còn 11 năm. Theo tôi điều này chỉ đặt ra với trường phổ thông được quan niệm như hiện nay là học thẳng một mạch, tôt nghiệp thì ra đời hoặc học lên đại học. Với trường phổ thông quan niệm như vậy sẽ không tránh khỏi hai bất cập lớn của trường phổ thông hiện nay như trên đã phân tích (chỉ có khác là 11 năm thay vì 12 năm). Còn để có học vấn phổ thông phổ cập khi ra đời thì chỉ cần 9 năm THCS như đề nghị của chúng tôi là đủ, sau đó hoặc học trung học hướng nghiệp, hoăc trung học phổ thông để chuẩn bị đầu vào đại học.

5: Để biện minh chủ trương duy trì thi tốt nghiệp THPT một số quan chức giáo dục thường viện lẽ trên thế giới bất cứ nước nào cũng có thi tốt nghiệp. Đây là thông tin sai, nhất là nếu hiểu thi tôt nghiệp là thi theo kiểu ta. Nhân đây tôi nhớ lại khi bàn về phân ban ở THPT trước đây 8 năm một số người muốn bênh vực cách phân ban cứng nhắc của ta thường viện dẫn lý do phần lớn các nước trên thế giới đều làm như vậy, thậm chí còn dẫn ra ở Thụy Điển THPT có đến cả vài chục ban. Hỏi ra mới biết đó là do hiểu sai cách tổ chức học ở THPT Thụy Điển và nhiều nước khác.

6 : Trươc kia ở Miền Bắc, theo mô hình Liên Xô và các nước Đông Âu, chỉ Đại học Tổng hợp mới dịch là University, cho nên Hanoi University là dịch tên Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nay có Đại Học Hà Nội mới mở, cũng gọi là Hanoi University nhưng hoàn toàn không liên quan với Đại học Tổng hợp xưa. Thật là rối.

7: Một nét khác biệt, không giống ai cả, của đại học công lập VN là bên cạnh hệ chính quy, còn có hệ “ngoài ngân sách”, học phí cao của sinh viên hệ này dùng để tăng thu nhập cho thầy dạy, bù vào lương chính thức quá thấp. Đây thực chất không khác gì một loại trường tư trá hình, ghép vào trường công để sử dụng phương tiện của trường công. Nếu kể càc hệ này là ngoài công lập thì thật ra tỉ lệ sinh viên ngoài công lập ở VN phải đến 60-70% chứ không ít hơn, Ở nhiều nơi số sinh viên tuyển vào hệ này xấp xỉ số sinh viên chính quy, tạo ra một nguồn thu nhập khá cho thầy dạy, với cái giá phải trả là tăng gấp đôi hoặc hơn số giờ dạy cho các thầy, vừa hạ thấp chất lượng đào tạo ngay trước mắt, vừa khiến cho thầy dạy không còn thì giờ nghiên cứu khoa học hoặc học thêm nâng cao trình độ. Số này sau một số năm như vậy, nếu có được cử đi du học thì sức bật cũng không còn nhiều, còn nếu cứ tiếp tục ở lại trường thì ngày càng đuối sức so với yêu cầu, không theo kịp được đà tiến nhanh của khoa học, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng về lâu dài.