Một tầng lớp trung lưu cho Việt Nam

 

APRIL 23, 2013 BY  120 COMMENTS

10 April 2013

 

“Chúng ta phải chú tâm vào lợi ích của những gia đình trung lưu để tạo một nền kinh tế ổn định. Như cha tôi, mỗi đêm Chúa Nhật, phải mất ngủ đi quanh nhà suy nghĩ tìm cách mưu sinh, trong khi con cái ông, nằm trong chăn ấm cúng, mơ về những giấc mộng lớn. Những gia đình không chắc là sáng Thứ Hai sẽ có được gì, nhưng luôn luôn tin rằng những ngày tốt đẹp của quốc gia đang đợi chờ trước mặt” (Charles Schumer)

 

Trong bài nói chuyện tại Café Thứ Bẩy hôm 6 tháng 4 năm 2013 cho khoảng 80 bậc trí giả ở Saigon, tôi đã mạo muội múa rìu qua mắt thợ và bầy tỏ quan điểm của tôi về đề tài khá bao quát,” Những điều kiện tiên quyết để tạo dựng một nền kinh tế vững mạnh”. Dĩ nhiên, tôi phải đón đầu đây là những tư duy rất sơ đẳng, hoàn toàn chủ quan từ góc nhìn cá nhân và đòi hỏi các khảo cứu sâu rộng cùng phản biện trí thức khác.

 

Theo tôi, 3 điều kiện đó là: (a) một thể chế chính trị hiện đại (b) một nền giáo dục tự do và thực tiễn và (c) một hệ thống tài chánh liên thông với thế giới. Nhưng trên hết là một tầng lớp trung lưu để nâng đỡ và nuôi dưỡng nền kinh tế này.

 

Tôi không được phép nói thêm về điều kiện chính trị và chỉ có thể bàn qua về nền giáo dục hay hệ thống tài chánh.

 

Môi trường giáo dục

 

Ai cũng biết người Việt là một trong những dân tộc hiếu học nhất. Bản chất thông minh, sinh viên Việt đã tạo những thành quả ấn tượng tại khắp các học đường trên thế giới. Các bậc phụ huynh cũng coi chuyện đầu tư vào giáo dục của con em là lựa chọn hàng đầu. Tại Việt Nam, có trên 20 triệu sinh viên học sinh, vài chục ngàn tiến sĩ và cả triệu cử nhân đã được đào tạo trong nước.

 

Tuy nhiên, sự đóng góp của giáo dục trong nền kinh tế gần như rất thấp vì khả năng của sinh viên ra trường thua kém chuẩn mực đòi hỏi của nghề nghiệp quá xa. Một thí dụ tôi hay kể là hãng Intel cần 120 chuyên viên trung cấp cho nhà máy ở Thủ Đức của họ. Trong số gần 2,000 ứng viên xin việc, họ chỉ nhận vài chục người, số còn lại phải nhập khẩu chuyên viên từ Mã Lai hay Philippines. Ngay cả những ngành học không cần cho ứng dụng kinh tế như khoa học nhân văn, tự nhiên, sư phạm… các sinh viên ra trường cũng thua xa các bạn đồng nghiệp tại Đông Nam Á.

 

Hệ thống đại học Mỹ được xem như là tối ưu trong các xếp hạng; dù các trường tại Âu châu có thể đã tồn tại lâu hơn. Lý do chính là chánh phủ Mỹ không bao giờ can thiệp vào giáo trình hay điều hành của bất cứ đại học nào,dù nhiều đại học công có nhận tài trợ từ ngân sách tiểu bang. Sự tự do này đem đến một sáng tạo rất đa chiều đa dạng.

 

Yếu tố giáo dục này đã đem một lợi thế cạnh tranh đáng kể cho nền kinh tế Mỹ; nhất là khi những sinh viên ngoại quốc của các trường đại học Mỹ quay về bản xứ để nắm các chức vụ quản lý quan trọng trong lãnh vực chánh phủ hay tư nhân. Tầm nhìn hay tư duy hay phương cách làm việc rất thích ứng với nền kinh tế toàn cầu do Mỹ đề xướng.

 

Hệ thống tài chánh

 

Vì đây là nền kinh tế toàn cầu nên cội rễ tài chánh (huyết mạch của hệ thống) phải có cùng một hệ điều hành. Một phần mềm cho IPhone không chạy trên các điện thoại Android hay ngược lại. Đó là lý do nền kinh tế Trung Quốc, mặc cho sự tăng trưởng ấn tượng và số lượng dân, vẫn tiềm tàng nhiều bất ổn, nhất là khi các siêu cường áp lực Trung Quốc phải để cho đồng nhân dân tệ (yuan) thả nổi và tự do hoán chuyển.

Ngày nào mà Việt Nam chưa dám cho tiền “VN đồng” hội nhập vào hệ thống tiền tệ thế giới thì chúng ta vẫn chỉ đá bóng trên sân nhà, với những quy luật riêng, không giống ai và không thể ra biển lớn để thi đua hay thu hút khán giả. Nền kinh tế sẽ bị giới hạn và luôn thu nhỏ, lệ thuộc vào nghị quyết của chánh phủ và những con cá mập tư bản nước ngoài có liên hệ chính trị với các quan chức và đại gia. GDP có thể tăng trưởng (dù không mấy ai ngoài cuộc tin vào các số liệu này) nhưng dòng tiền đầu tư chính thống (rất dồi dào trên thế giới) vẫn sẽ không đến với Việt Nam.

Thêm vào đó, để 3 diều kiện trên tồn tại và phát triển, chúng ta cần một tầng lớp trung lưu để nuôi dưỡng và bảo đảm sự vững mạnh cùng sáng tạo này của nền kinh tế.

Trung lưu là nền tảng

Dựa trên kinh nghiệm của Âu, Mỹ, Úc, Nhật, Hàn Quốc, Singapore…, tôi cho rằng tầng lớp trung lưu đã đóng góp rất tích cực vào sự phồn thịnh của các quốc gia này.

Trước hết, tầng lớp này là những “con kiến” cần cù xây dựng ngày đêm trong công việc được giao phó để tạo một phân khúc sản lượng cao nhất của GDP. Vì tạo được thu nhập lớn theo số đông, họ cũng là những người dân đóng thuế nhiều nhất cho ngân sách quốc gia. Sự đóng góp của họ còn thể hiện qua nhu cầu tiêu dùng, vốn tiết kiệm trong các ngân hàng, quỹ đầu tư và các hoạt động thiện ích ngoài xã hội.

Nhờ các hệ thống tín dụng dài và ngắn hạn, tầng lớp trung lưu tại các xứ này cũng là những người nắm giữ phần lớn tài sản…và do đó, phần lớn nợ nần liên quan. Trong định luật kinh tế, thành phần có nhiều thứ để mất là thành phần năng động và bảo thủ nhất. Vì tài sản, vì nợ nần, họ phải cật lực và sáng tạo để kiếm tiền, để giữ gìn tài sản cho gia đình và bảo vệ xã hội quốc gia khi gặp hiểm họa từ bên ngoài. Tầng lớp trung lưu thường bao gồm những người yêu nước nhất.

Dù thành phần trung lưu có nhiều tài sản và thu nhập nhất nhờ chiếm đa số dân, nhưng các tài sản và nợ nần này lại trải đều ra, tạo một thế cân bằng cho nền kinh tế. Cá nhân mỗi người không đủ giàu hay lớn để có ảnh hưởng gì đến thị trường; và trong việc đóng góp cho quốc gia, họ không đủ quyền lực hay kiến thức để tìm cách trốn thuế hay di chuyển tài sản ra nước ngòai.  Đó là lý do chính một nền kinh tế tạo dựng trên nền tảng “trung lưu” này sẽ vững bền và mạnh mẽ hơn. Nguyên lý này ông cha ta đã biết,” dân giàu nước mạnh”.

Quá khứ và tương lai

Trong lịch sử nước nhà, các lãnh đạo kinh tế của Việt Nam đã phạm hai lỗi lầm lớn trong quá khứ tạo nên hai cuộc khủng hoảng coi như “đại suy thoái” trầm trọng. Đầu tiên là chương trình cải cách ruộng đất theo mô hình Trung Quốc vào năm 1953 khi quốc gia còn là một nước nông nghiệp. Loại trừ phú nông ra khỏi nền kinh tế còn thô sơ để sở hữu hóa ruộng đất (cha chung không ai khóc) đã gây đói nghèo và thoái hóa tại nông thôn kéo dài nhiều thập kỷ.

Sau đó, chương trình “diệt tư sản” sau 1975 đã tàn phá thêm tầng lớp trung lưu đang là cột sống của nền kinh tế miền Nam vào giai đoạn đầu của phát triển. Suy thóai kéo dài hơn 20 năm sau đó là hệ quả của sự thiếu vắng một tầng lớp trung lưu trong xã hội. Hồi phục chỉ bắt đầu khi tư nhân được phép làm ăn, với sự góp vốn phần lớn từ các Việt Kiều và các nhà đầu tư ngoại. Hiện nay, một tầng lớp trung lưu đã manh nha hình thành; nhưng những chánh sách ưu tiên, dồn nguồn lực  cho các doanh nghiệp nhà nước có thể làm trì trệ thui chột sự tăng trưởng nhiều hứa hẹn này.

Giáo điều và chủ nghĩa thực ra là một thừa thãi trong việc phát triển nền kinh tế vững mạnh.   Đặng Tiểu Bình đã hiểu được chân lý về “mèo trắng mẻo đen hay mèo đỏ” sau 30 năm lỗi lầm của chánh phủ Trung Quốc.  Tuy nhiên, dồn chuột bắt được cho một nhóm lợi ích bằng ban phát quyền lực và quyền lợi trong một cuộc cạnh tranh không chính thống cũng sẽ tạo những bất ổn mà Tập Cận Bình đang phải đối phó. Như Acemoglu đã nhận xét trong cuốn “Why nations fail?’, miếng bánh kinh tế phải được san đều ra cho số đông, qua một sân chơi bằng phẳng với những trọng tài công minh.

Mọi can thiệp để lèo lái nền kinh tế theo chiều hướng tạo lợi ích cho một thiểu số người, không sớm thì muộn sẽ kết cuộc trong suy thoái và đổ vỡ cho đại đa số. Tầng lớp trung lưu đủ thông minh để nhận ra sự khác biệt giữa “bánh vẽ và thực tại” qua các hoạt dộng hàng ngày. Hãy cho họ cơ hội để họ có động lực chính đáng trong việc đóng góp vào sản lượng quốc gia.

Có phải Marx đã phán,” chúng ta không có gì để mất, ngoài những gông cùm…”?

Alan Phan

Tôi chỉ có một phong cách là sống thật

 

APRIL 15, 2013 BY  19 COMMENTS

 


T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa tại Hong Kong và Shanghai

Tôi chỉ có một phong cách là sống thật

Những bài viết về kinh tế đăng rải rác trên các báo trong nước khiến tiến sĩ Alan Phan thu hút được nhiều sự chú ý không chỉ trong giới kinh doanh. Từng có trong tay hàng triệu USD, ông Alan Phan đã giành cho tạp chí Lifestyle cuộc trò chuyện thẳng thắn về đồng tiền, về hàng hiệu và sự hưởng thụ

Là một doanh nhân từng sở hữu nhiều triệu USD, nhưng dường như ông vẫn bị ám ảnh về đồng tiền?

– Thực tình khi còn trẻ, có rất nhiều việc phải lo như đời sống của vợ con, sự nghiệp… nên tiền bạc là vấn đề ám ảnh khá thường trực. Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên khi từ Việt Nam sang Mỹ, tiền bạc là nỗi ám ảnh lớn nhất cuộc đời. Tới khi kiếm được nhiều tiền rồi thì suy nghĩ có thay đổi, lúc ấy kiếm tiền không trở thành một vấn đề sinh tồn nữa, mà đã nhập vào tiềm thức của mình, sinh ra thú vui khác, đó là thử thách trong làm ăn. Khi coi mỗi thương vụ là một trò chơi, suy nghĩ mới mẻ hơn, cách sống cũng thú vị hơn

Ông có những bài viết rất sâu sắc về kinh doanh, về đồng tiền, quan niệm của riêng ông về tiền là gì?

– Quan điểm về đồng tiền của tôi thay đổi theo từng thời điểm.

Bước vào đại học, say mê với những văn phẩm nghệ thuật mang mầu sắc hiện sinh từ Kafka, Camus, Kierkegaard.. tôi có thái độ rất thịnh hành ngày đó là coi thường những doanh gia (thậm chí gọi là trọc phú) và tiền bạc. Tuy nhiên, tôi khám phá rất nhanh một điều, tất cả những gì hay những người tôi yêu thương đều “cần” và “yêu” tiền. Đúng như cô đào người Mỹ gốc Hungary Zsa Zsa Gabor nói: “ khóc đâu cũng là khóc, nhưng tôi thích khóc trong chiếc xe Rolls Royce”.

Tôi bắt đầu đi vào một thái cực khác, say đắm đồng tiền như một “người vợ” mà mình đã không biết yêu khi cưới. Tôi yêu tiền như một đứa bé lần đầu bước vào tiệm kẹo. Suốt thời trung niên, tôi thấy đồng tiền là tất cả. Tôi quên mất những mặt trái của đồng tiền, chỉ còn say đắm với lợi ích. Tôi cho rằng ba lợi ích lớn nhất của đồng tiền nhìn từ góc cạnh trí thức là tự do, thời gian và nhân tính.

Tuy nói vậy nhưng thực tế thường phức tạp và nhiều thách thức hơn lý thuyết. Trước hết, hành xử hàng ngày của một người làm kinh doanh bị giới hạn bởi trách nhiệm với cổ đông, nhân viên, khách hàng, quyền lợi và thương hiệu của doanh nghiệp, và với cả cộng đồng chung quanh. Tôi không thể nói hay làm những gì có thể gây hại đến những đối tác này. Bản thân cũng không có quyền bị bệnh. Tôi bận rộn khủng khiếp khi giàu có. May mắn lắm mới có thì giờ nhàn rỗi để đọc hết một cuốn sách trên 500 trang. Những tiệc tùng lễ hội liên tiếp không cho tôi thời gian để thư giãn với gia đình bạn bè. Bao nhiêu liên hệ thân tình sâu xa đã bị sự giàu có chia cắt.

Đến thời điểm này, trải qua bao nhiều thăng trầm, tôi mới hiểu đồng tiền chỉ là phương tiện, đứng sau sức khỏe, sau tinh thần, sau sự thanh bình tâm hồn. Thứ hạng của đồng tiền ngày càng tụt hạng. Tôi vẫn yêu tiền. Dù nó mang đến hạnh phúc hay đau khổ, đồng tiền vẫn là “người vợ”, “người tình” và “người bạn” tuyệt vời. Tôi đã hiểu lời của triết gia Jean P. Sartre rằng, “chúng ta nô lệ cho những gì mình sở hữu”

 Trong lần đầu tiên kiếm được một số tiền lớn, ông đã xài nó thế nào? Thời điểm nào ông kiếm được nhiều tiền nhất?

– Tôi không suy nghĩ nhiều về đồng tiền nhận được khi đi làm thuê, mà nhớ nhất 500 ngàn USD từ một quỹ tài trợ cho dự án kinh doanh đầu tiên của mình, để xây dựng công ty. Chưa bao giờ tôi có được số tiền lớn như thế, nên rất hoan hỉ, và đã copy lại tờ chi ngân phiếu, đóng khung lại để ngay trên bàn làm việc của mình. Sau này, dù kiếm được nhiều tiền hơn nhưng tôi thấy mình không vui và hạnh phúc bằng lần đầu tiên ấy…

Tôi cũng không dấu diếm là suốt 42 năm lăn lộn trên thương trường, lòng tham vô đáy bắt tôi phải đứng dậy tiếp tục cuộc chơi cho đến mức thành công. Dĩ nhiên, nó cũng dẫn đến nhiều thất bại điên rồ. Tôi sắm chiếc Lamborghini vào năm 33 tuổi, tôi bỏ vài trăm ngàn USD để đưa một siêu mẫu Venezuela qua Paris chơi hai tuần, tôi lên báo Mỹ tuyên bố vung vít về thành quả của công ty tại Trung Quốc (tôi ví mình là người mở đường cho IT ở đây), tôi hoang phí sức khỏe trong những bữa tiệc thâu đêm hay những chuyến bay liên lục địa mỗi tuần. Tôi tạo nên những kẻ thù không cần thiết. Tất cả để “khoe” với thế giới là tôi đã “đạt”.

Đồng tiền đã cho tôi những thứ tuyệt vời như hai chiếc đồng hồ Oris Artelier của tôi và vợ, được mua trong một phút ngẫu hứng tại Monte Carlo; như chiếc du thuyền Feretti tôi chia sở hữu với 3 người bạn khác ở Miami (Mỹ); như căn hộ nhỏ bé dễ thương cạnh bờ biển Puerto Viejo của Costa Rica; như những bộ viết máy mang các tên huyền thọai như Mont Blanc, Cartier, Montegrappa, Visconti… mà tôi đã tốn công sưu tập suốt 25 năm.

Đồng tiền cũng cho tôi những trải nghiệm khó quên như chuyến du hành lạ lùng vào Tây Tạng huyền bí vào năm 1979, khi rất ít người ngoài được phép đến đó; như chuyến leo núi ở  Cerro Castor phía nam Argentina đầy mạo hiểm, mà tôi suýt bị môt trận bão tuyết chôn vùi; như lần đi dã ngoại ở Kenya nóng bức với một người tình Rwanda đen hơn than đá.

– Ông cũng đã từng nếm trải cảm giác bị trắng tay hoàn toàn, khi ấy, ông làm sao đứng dậy và làm lại?

Đúng vậy, tôi từng trắng tay vài ba lần trong cuộc đời, dưới nhiều hình thức khác nhau. Lần đầu tiên khi còn ở Việt Nam, có rất nhiều cơ sở làm ăn với cả chục ngàn nhân viên, sở hữu nhiều tiền bạc, nhà cửa khi tuổi đời còn trẻ. Sau ngày 30/4/1975, tôi không còn đồng nào. Đi qua Mỹ với một vợ một con, gặp một người bạn móc túi cho tôi 400 USD, suy nghĩ lớn nhất lúc ấy là làm gì để nuôi gia đình. Không băn khoăn, không than khóc.

Lần trắng tay khác là khi kinh doanh địa ốc tại Mỹ, cơn lốc khủng hoảng ập đến đã khiến tôi thua lỗ sạch, phải đứng dậy đi ra khỏi nhà, trả lại tất cả sản cho nhà băng, chỉ còn một va li quần áo, vợ con cũng bỏ đi hết… Tôi cũng chẳng buồn, chỉ nghĩ phải làm gì tiếp đây? Tính tôi thế, không cho phép mình buồn lâu hơn một tuần, mỗi lần trắng tay coi như mình thua một trận tennis, để tiếp tục trở lại với trận đấu trên thương trường. Đó là nhu cầu sinh tồn của con người, không phải nghị lực cao siêu gì cả. Tôi là con người thực tế, giữa việc ngồi than khóc và đi kiếm tiền tiếp, tôi lo suy nghĩ để kiếm tiền

Doanh nhân Việt Nam thường giấu giếm chuyện thua lỗ, phá sản, trắng tay… vì sao ông lại công khai những lần phá sản?

Cách nhìn của xã hội Việt Nam khác Mỹ. Trong môi trường kinh doanh Mỹ, chuyện phá sản khá bình thường, không bi kịch hóa như ở Việt Nam. Ngay cả khi ở Việt Nam, tôi cũng không quan tâm lắm đến chuyện người khác nghĩ về mình. Tôi luôn nói với người khác rằng những gì bạn nghĩ về tôi là vấn đề của bạn, không phải của tôi. Chuyện xấu hổ, chuyện suy sụp ít khi xảy ra vì thái độ của mình là như vậy

 

Tại sao khủng hoảng kinh tế mà người Việt Nam vẫn nhậu nhiều đến thế, mua hàng hiệu nhiều đến thế, điều này có bất thường không?

Tôi thấy cách xài tiền của giới trẻ cũng bình thường thôi, vì tuổi trẻ thường không suy nghĩ nhiều về tiền bạc và hay xài ẩu, không quá lo xa cho tương lai. Điều tôi lo ngại nhất là cách họ nhậu nhẹt, hút xách. Tôi luôn chú trọng việc giữ cân bằng cho con người mình, nên không nhậu nhẹt, hút thuốc, vì nó khiến tôi không kiểm soát được mình.

Mua hàng hiệu là tính sĩ diện của người Việt Nam và người châu Á nói chung, cả những người lớn và người bé cũng thích hàng hiệu, thích phô trương hoành tráng. Vấn nạn lớn của các đại gia là họ tiêu xài đồng tiền họ chưa kiếm được, để mua những đồ chơi họ không cần, để gây ấn tượng với những người họ không ưa. Thích sĩ diện là một văn hóa lớn và lâu đời của các quốc gia Đông Á. Một thói quen thông dụng khi có tiền, có danh hay có quyền là thích khoe khoang, hay nói lịch sự hơn là thích biểu hiện những gì mình vừa chiếm hữu, dù hợp pháp hay không. Thực tình, đây là một hành xử rất quen thuộc với giới nhà giàu trên thế giới. Vì ai có tham vọng và may mắn để sở hữu những chiến lợi phẩm đều có mong ước là mọi người phải chiêm ngưỡng và ghen tị với họ. Sự kiêu căng do lòng tự ái cao độ là căn bản của văn hóa sĩ diện nói trên.

Tôi ít bị ảnh hưởng bởi điều này. Đối với tôi, chuyện khoe khoang hàng hiệu chẳng nghĩa lý gì, đó là cá tính của mình

– Vậy tại sao ông lại tham gia làm bình luận viên và góp phần đầu tư cho một tờ tạp chí chuyên giới thiệu những hàng hóa rất xa xỉ? Có cách nào người ta có thể đến với hàng hiệu, mà không bị nó cuốn theo, không bị đánh mất “nhãn hiệu” của chính mình?

Tôi không quan tâm đến hàng hiệu, mà chỉ coi việc đầu tư vào tờ tạp chí là đầu tư vào một món hàng bán rất chạy ở các xã hội Á Đông như Việt Nam, Trung Quốc… .

Người Âu Mỹ giỏi hơn trong việc đè nén sự phô trương quá mức thường thấy ở các đại gia Á Châu, nhất là ở những nhân vật giàu có của các xã hội mới nổi như Trung Quốc và Việt Nam. Trong khi các triệu phú Âu Mỹ thích biểu hiện quyền danh và của cải tại những Câu Lạc Bộ rất riêng tư, kín đáo của tầng lớp giàu có và nổi tiếng, thì các đại phú gia của Việt Nam thích biến những họat động cá nhân thành những sự kiện với sự tham dự đầy đủ của truyền thông. Hào quang phải được phát tán đến đầu đường xó chợ khắp xứ sở mới thỏa mãn được lòng tự kiêu.

Dù đồng cảm, tôi vẫn có chút ngượng ngùng khi liên hoan cùng các bạn thành đạt của tôi trong môi trường hiện tại. Chiếc xe Rolls-Royce có vẻ lạc lỏng cạnh con trâu mệt mỏi giữa những mái tranh nghèo. Chiếc du thuyền Ferretti trông quá hách dịch cạnh chiếc xuồng câu trên giòng sông đục bẩn. Cái bể bơi cạnh biển ở Ana Mandara thấy sao trần trụi khi bị cặp mắt buồn bã của chú bé hốt rác nhìn vào từ rào tường. Một cô người mẫu thật xinh với chuỗi ngọc Cartier và bộ váy Versace đi qua một khu phố ổ chuột có vẻ như thách thức lòng tự ái của mọi người.

Những trò chơi để biểu hiện “phong cách” hay “đẳng cấp” của những người may mắn ở Việt Nam dường như không hợp lúc, không hợp chỗ, không hợp thời. Chúng có vẻ gượng gạo, ép uổng như một vở kịch không bố cục, dựng lên trong vội vàng… Các bạn ơi, hãy nhớ là cuộc chơi nào cũng kèm theo những hóa đơn khá đắt.

Từ khi nào ông tạo được cho mình một phong cách riêng?

Tôi không suy nghĩ nhiều về chuyện xây dựng phong cách cá nhân. Mình nên là mình, không cố gắng là người khác, sống rất thực với những gì mình suy nghĩ, những gì mình tin. Ai khen chê ráng chịu. Về ăn mặc, tôi thích gì mặc nấy không quan tâm tới thương hiệu, quan trọng nhất là làm sao thoải mái, không bị nóng bức, và hợp với từng hoàn cảnh. Thời trẻ thì cần hình thể phải hấp dẫn để thu hút phái yếu, giờ không quan trọng nữa, mình thấy được là được, hơi xộc xệch một chút cũng không sao, miễn là phải sạch sẽ. Tôi thường chọn chất liệu cotton, và xài nước hoa hiệu Boss như một thói quen thôi

Khi mình còn đang đi làm công cho người khác, phải tuân theo những quy ước, kỷ luật. Khi còn làm cho những hãng nhỏ, tôi rất khó chịu khi phải mặc những bộ đồ vest đồng phục màu xanh dương đậm, áo trắng, cà vạt đỏ. Mãi đến khi làm cho mình, tôi mới được tự do. Đương nhiên sống trong một xã hội khi chưa được tự do, có những quy ước mình phải tuân theo. Quan niệm của tôi là đồng tiền mang lại cho mình sự tự do trong lối sống và suy nghĩ riêng. Tôi chỉ có một phong cách là sống thật.

 

Ông tự do nhất khi nào?

Khi mình có nhiều tiền nhất… nói đùa thôi, là lúc mình bình an nhất. Lúc ấy, thấy mọi điều chỉ là thứ yếu, là chuyện nhỏ. Khi vẫn còn thôi thúc, ám ảnh kéo tới kéo lui thì chưa thể có tự do. Tự do chỉ là tương đối thôi, không có tự do tuyệt đối, luôn có những điều mình không được như ý, nhưng tôi bình yên

Trong giáo dục con cái, làm thế nào để anh có thể hướng dẫn con tiêu xài đúng cách, tạo được một gu thẩm mỹ riêng, sành điệu nhưng không xa xỉ?

Mình sinh con, trời sinh tính, ảnh hưởng của mình có khí còn kém ảnh hưởng của bạn bè quanh nó. Cách giáo dục tốt nhất mình là tấm gương, sống không dấu giếm, không đạo đức giả với con. Quan trọng nhất là để con hiểu mình luôn ở bên cạnh, ủng hộ con, lắng nghe và giành thời gian cho con, biết dung hòa giữa quan điểm của mình và con cái. Khi con đã trưởng thành, chỉ hướng dẫn, không áp đặt… Có thể đó là cách chưa chắc đã hay, tôi có hai cậu con trai, chỉ mong muốn con thành hai công dân tốt trong xã hội

Trong không gian sống của mình, ông coi trọng điều gì nhất?

Sự yên tĩnh. Tôi hay làm việc đầu óc, nếu xáo trộn ồn ào quá sẽ rất khó chịu. Tôi rất sợ khi phải hít thở không khí ô nhiễm bởi bụi, khói và tiếng ồn, nên đã chọn một ngôi nhà nhỏ ở Phú mỹ Hưng. Tôi thích xung quanh nhà có cây xanh yên ả. Điều thứ ba là càng ít đồ đạc càng tốt. Tôi cần nhiều chỗ trống thoải mái, phòng ăn, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng thể dục… không cần xa hoa dát vàng. Thải mái là tiêu chí số một trong môi trường sống của tôi

 

– Bản lĩnh sống nào đã giúp ông có được sự an nhiên, trong khi rất nhiều đồng nghiệp doanh nhân khác đang “ngơ ngác” trước sự bất trắc của thời cuộc, khi khủng hoảng đang rơi xuống đáy như hiện nay?

Có thể do tôi lớn tuổi hơn họ. Ngày xưa mình cũng gặp nhiều bất trắc do chấp nhận rủi ro lớn. Cách đây mười mấy năm tôi đã từng bị mổ tim vì áp lực, sau đó học được bài học tự tại. Giờ thì chấp nhận rủi ro ít, nên kiếm tiền cũng ít đi, thấy nhẹ nhàng hơn nên khi tình thế xấu không làm mình mất tinh thần, vì có mất cũng không mất nhiều. Phải lựa chọn cho mình đường đi, để sống nhẹ nhàng hơn. Ít rủi ro đồng nghĩa với ít may mắn, ít lo lắng. Nếu cứ đánh bạc lớn thì trái tim phải vỡ ra nhiều lần

Nhìn về năm 2013, ông có thấy hy vọng nào cho giới kinh doanh?

Năm 2013 sẽ không khá hơn 2012, mà có thể tệ hơn, chính sách của chính phủ và môi trường vĩ mô không được cải thiện, vẫn bình cũ rượu cũ, nên kết quả không thay đổi nhiều lắm so với 2012. Trong tình trạng khủng hoảng này, doanh nghiệp phải cẩn thận hơn, bảo thủ hơn. Không phải là lúc tung ra đánh mạnh mà rút về căn cứ để bảo tồn lực lượng, chuẩn bị đánh tiếp trận mới. Riêng tôi cũng đã rời khỏi quỹ đầu tư của mình để tìm con đường mới.

– Giới doanh nhân đang rất tò mò về buổi tiệc tất niên của ông vì muốn xem thiên hạ chế diễu, nhạo báng, phê phán…ông ra sao. Ở Việt Nam, các buổi lễ vinh danh được tổ chức rầm rộ mỗi ngày, nhưng bỏ tiền ra để ngồi nghe… chửi, thì chắc chỉ có Alan?

– Thực ra, đây là một truyền thống cả trăm năm nay tại Mỹ và cả ngàn năm nay tại Nhật. Có lẽ đó là lý do họ ít bị “táo bón” về mặt tinh thần và trí tuệ như văn hóa 5 ngàn năm của ta và Tàu

Trong các cung vua phủ chúa của Nhật, hoàng đế thường thuê một vài anh hề để chế diễu mình và các cận thần. Vai trò của các anh hề này làm giảm đi sự căng thẳng của tình thế, cho mọi người một góc nhìn tư duy lạ hơn; nhưng quan trọng nhất là đem “con người” về đúng vị trí của nó, để không ai hoang tưởng mình là thần thánh, không bao giờ sai hay ngu hay điên. Các lãnh đạo Âu Mỹ thì ngoài các đảng đối lập, còn cả ngàn phóng viên, bình luận gia… theo dõi từng bước, muốn ăn vụng cũng khó chứ đừng nói tới chuyện muốn làm thánh gióng.

Tôi vẫn nghĩ nếu lãnh đạo Trung Quốc và các nước Á Châu có được văn hóa tự trào, tự phê, tự chấp nhận yếu kém thực của mình… thì lịch sử đã không nghiệt ngã với đa số người dân của các xã hội này.

Từ ý nghĩ đó, mong các bạn hãy tiếp tay tạo nên phong trào tự phê phán khắp xứ; nghĩa là từ nay, thay vì các sự kiện tự PR hoành tráng hay các bài viết thuê trả tiền để vinh danh (thực ra là nói dối dư luận), chúng ta chỉ tham dự vui chơi ở những nơi mà bạn bè thân hữu cười diễu, “xấu khoe đẹp giấu”. Khi mọi người thoải mái hơn về cái “sĩ diện” hão, thì những chuyện giả dối, vô cảm…ở xứ này sẽ giảm đi chăng?

Box: Tiến sĩ Alan Phan du học Mỹ từ năm 1963, từng làm việc tại nhiều công ty đa quốc gia ở Wall Street và phát triển công ty Hartcourt của mình thành một tập đoàn niêm yết trên sàn Mỹ với thị giá hơn 700 triệu USD. TS Alan Phan tốt nghiệp tại đại học Penn State (Mỹ), Thạc sĩ tại đại học American Intercontinental (Mỹ), Tiến sĩ tại đại học Sussex (Anh) và Southern Cross (Úc). Là tác giả 9 cuốn sách Anh và Việt ngữ về thị trường mới nổi . Cộng tác với các tạp chí Vietnam Financial Review, Robb Report, Saigon Times, Vietnamnet, Saigon Tiếp Thị, Doanh Nhân Sai Gòn… những bài viết sâu sắc và chân thực của ông luôn gấy sự chú ý và thích thú với dư luận.

Quote: “Tinh hoa trí tuệ, tinh hoa tinh thần khac xa với sự phô trương hàng hiệu. Để có thể hình thành giới tinh hoa phải cần có thời gian, vì văn hóa, giá trị tinh thần không thể mua được bằng tiền” – Alan Phan

 

Bài đăng trên tạp chí Lifestyle 

Lối thoát nào cho những người khôn ngoan?

Phạm Chí Dũng

Chỉ bị ngăn trở với Việt Nam bởi chưa đầy một trăm cây số đường biên giới Trung Quốc, dân tộc Mianmar lại đang chuyển mình dữ dội trên con đường đến với Tự do…

 

Glasnost!

Vào đầu tháng 4/2013, sau sự kiện những tờ nhật báo tư nhân đầu tiên ở Mianmar được xuất bản lần đầu tiên trong nửa thập kỷ qua, ngay cả vài nhà phân tích chính luận sắc sảo trên thế giới như báo Le Monde của Pháp vẫn chưa hết ngạc nhiên về điều được coi là đổi thay ngoạn mục ở đất nước này.

Sự ngạc nhiên của Le Monde cũng làm cho thái độ kinh ngạc của giới phân tích quốc tế biến thành một thực thể chứ không còn là cảm giác huyễn hoặc của hai năm trước đây.

Rõ như ban ngày, chỉ sau hai năm kể từ khi chính quyền quân sự chính thức bị chôn vùi, tự do báo chí đã trở thành một thực dẫn sống động, trái ngược với tâm thế bị bịt miệng trong dĩ vãng. 

Một lần nữa, các nhà bình luận phải nhắc lại từ “Glasnost” đã và đang diễn ra một cách kế thừa ở Mianmar.

Trong ngữ nghĩa tiếng Nga, “Glasnost” có nghĩa là “Công khai hóa” – một chính sách minh bạch hóa đến mức tối đa các hoạt động của cơ quan nhà nước và tự do thông tin cùng tự do ngôn luận tại Liên Xô, được đề xướng bởi Gorbachev vào nửa cuối thập niên 1980.

“Glasnost”, theo một mục tiêu khác củs Gorbachev, cũng nhằm giảm bớt việc lạm dụng quyền lực của bộ máy trung ương đảng, đồng thời báo chí ít bị kiểm duyệt và do đó tự do thông tin hơn.

Một nhà báo người Mianmar – ông Myo Thanh – vẫn chưa hết bồi hồi khi ông không hề nghĩ là sẽ có một ngày được tự do như hiện nay, mà cứ nghĩ ông phải sống lưu vong suốt đời ở nước ngoài.

Một nhận định trên báo chí Mianmar cũng đã lần đầu tiên phác ra một con số sơ kết cho hai năm “Glasnost”: người dân Mianmar đã được tự do đến 80%.

Tất nhiên, vẫn còn nhiều thiếu sót rơi rớt của một nền hành chính đã từng bị lạm dụng quá nhiều trong ít nhất một thập kỷ, chẳng hạn như trên nguyên tắc, nhân dân được quyền biểu tình, nhưng giấy cho phép tổ chức biểu tình thì lại không được cấp. Hoặc còn những chủ đề cấm kỵ như vấn đề dân tộc thiểu số hay vai trò của quân đội…

Nhưng 80% cũng là quá nhiều cho hiện tại và tương lai, nếu đối chiếu với quá khứ cách đây không quá lâu và với cả những dân tộc mà mức độ tự do chỉ ngang ngửa với tỷ lệ tăng trưởng GDP.

Le Monde cũng không quên nêu ra một bình luận: đối với giới quan sát, khi tổng thống Thein Sein lên cầm quyền ở Mianmar, hiếm người có thể tưởng tượng đất nước này có thể chuyển biến như hiện nay. Đa số người dân và giới quan sát khi đó đều rất hoài nghi về việc thực hiện cải tổ. Còn những người bi quan nhất luôn lo ngại cái được gọi là cải tổ chỉ là sự tô vẽ lại hình ảnh cho chế độ cũ, hoặc một lớp sơn bóng dân chủ cho chế độ quân sự.

Nhưng thực tế đã khác hẳn, cho dù các bộ trưởng vẫn là cựu quân nhân, và quân đội vẫn chiếm đến 25% ghế trong Quốc hội.

Xã hội dân sự!

Mọi chuyện bắt đầu biến động từ ngày 13/11/2011, khi lãnh tụ đảng đối lập Aung San Suu Kyi được cựu tướng lĩnh quân đội Thein Sein ra lệnh giải tỏa chế độ quản thúc.

Liên đoàn quốc gia vì dân chủ của bà San Suu Kyi cũng vì thế được phục hồi hoạt động, từ vị thế bị đặt ra ngoài vòng pháp luật nhiều năm ròng trước đó.

Hành động của Thein Sein có lẽ đã gây ra phản ứng chỉ trích về động cơ mị dân giả hiệu của ông, nếu không phải chính ông đã đề xướng một chủ trương chưa từng có: hòa giải dân tộc, kèm theo việc phóng thích nhiều tù nhân chính trị qua nhiều đợt liên tiếp.

Trong quá khứ, nhiều đợt bắt bớ liên tiếp của chế độ cầm quyền độc tài đã làm cho nền chính trị và cả mặt bằng văn hóa của Mianmar bị biến dạng thảm hại. Không bao gồm nhiều trường hợp blogger trên mạng như ở Việt Nam, nhưng tại Mianmar lại thừa thãi số người muốn xuống đường.  

Tiếp nối hành động trên, Thein Sein cũng bày tỏ một cử chỉ quá xa lạ với chế độ độc tài và quân phiệt: kêu gọi những người bất đồng chính kiến và đối kháng ở trong và ngoài nước cùng chung tay xây dựng đất nước. Điều đó cũng có nghĩa là vị thế của Liên đoàn quốc gia vì dân chủ được nâng lên một mức độ cao hơn nhiều: không những tồn tại một cách hợp pháp, tổ chức đối lập này còn nhận được đề nghị hợp tác từ phía chính quyền Thein Sein. Thậm chí những tướng lĩnh thủ cựu nhất trong quân đội cũng không phản ứng quá mạnh mẽ trước động thái này.

Ngay sau đó, một cuộc bầu cử bổ sung vào Quốc hội Mianmar đã được tổ chức, với 35 đảng tham gia. Trong đó, Liên đoàn quốc gia vì dân chủ của bà Aung San Suu Kyi chiếm đến 42 ghế, đưa bà trở thành nhân vật số 2 của đất nước này, sau Thein Sein.

Hành động có thể coi là sự phối hợp đầu tiên giữa San Suu Kyi với chính quyền đương nhiệm là một quyết định hủy bỏ hợp đồng thủy điện Myitsone có giá trị đến 3,6 tỷ USD mà chính quyền trước đó đã ký với Trung Quốc, với mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái của nhân dân.

Ở Mianmar, hầu như ai cũng biết việc Trung Quốc thèm khát nguồn tài nguyên của đất nước này đến thế nào, và từ lâu đã làm nhiều cách để tạo được chân đứng tại quốc gia này, kể cả mục tiêu biến Mianmar thành một thứ “sân sau” của họ – cũng là một động cơ không thèm che giấu trong mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” với Việt Nam từ nhiều năm qua.

Vì thế, có thể coi hành động hủy bỏ hợp đồng khổng lồ với Trung Quốc là một thái độ dũng cảm nhất, mà nếu không có tiếng nói của các phong trào nhân dân và đảng đối lập, chính quyền của ông Thein Sein, dù có mang tính cải cách, cũng khó bề tự quyết.

“Glasnost” ở Mianmar cũng đã được thực thi một cách công khai và theo một lộ trình được xác định, chứ không chỉ bằng những lời phủ dụ nói trước quên sau. Chế độ kiểm duyệt, vốn đã siết chặt báo chí Mianmar nhiều năm qua, đã chính thức bị hủy bỏ. Thay vào đó, quyền tự do thông tin của báo chí được ban hành.

Với tư cách là một thành phần trong xã hội dân sự, báo chí được tự do trước và đã tạo nên hứng khởi cho những thành phần khác. Lần đầu tiên, chính quyền có cơ chế mời trí thức và chuyên gia mọi ngành làm tư vấn cho chính phủ, lắng nghe và thực hiện những đề nghị cải cách và phát triển của họ.

Xã hội dân sự lại xuất phát từ phương Tây chứ không phải bởi Trung Quốc. Sự vận động lan tỏa rộng khắp của mô hình này ở Mianmar cũng cho thấy quan điểm ngả dần về Mỹ và châu Âu của chính quyền đương nhiệm, thay cho sự lệ thuộc khá lớn trước đó vào Bắc Kinh.

Trong tâm trạng của giới trí thức và “một bộ phận không nhỏ” chính giới Mianmar, còn lâu mới có sự dung hợp giữa xã hội dân sự với Bắc Kinh, cũng chẳng thấy lối thoát nào cho những cá nhân tham nhũng sâu đậm của chính thể nếu cứ mãi đi theo lối mòn hủ bại của những kẻ “bốn tốt”.

Và chắc hẳn đó là một sự lựa chọn khôn ngoan của những chính khách biết làm chính trị.

Chia sẻ quyền lực!

Với nhiều chính khách biết làm chính trị trong chính quyền độc đoán cũng như nền hành chính hủ hóa đầy tham nhũng, sự lựa chọn số một của họ không ngoài mục tiêu “sáng ngời” là phải giữ bằng được mạng sống trước cơn thịnh nộ của lớp dân chúng đói rách nhưng lại bị đè nén đến tận cùng.

Khách quan mà xét, quy luật cùng chuỗi phản ứng xã hội của nhân dân luôn có thể làm đổi thay cả một chế độ chính trị – điều trước đó tưởng như không thể thay đổi và cũng chẳng bao giờ bị “hồi tố”.

Chỉ giữ được thế đi dây chính trị, những người khôn ngoan trong chính thể mới có thể nghĩ đến câu chuyện bảo toàn khối tài sản kếch xù đã vơ vét được từ tiền đóng thuế của người dân và do tất cả những gì mà đời sống tham nhũng “ấm no” đã mang lại.

Và cuối cùng, việc giữ được một phần quyền lực trong bối cảnh phải chia sẻ phần còn lại cho phong trào dân chủ đối lập và nhân dân cũng không phải là một phương án quá tệ, nếu so sánh với triển vọng phải sống lưu vong hoặc mất trắng.

P.C.D.

 

Thất vọng và niềm vui

Theo  BLOG CỦA ALAN  88 COMMENTS APRIL 10, 2013 BY

Mấy ngày nay ông già Alan bị “chất vấn” tới tấp về chuyện định bỏ Việt Nam đi làm ăn nơi khác. Nếu các bạn biết rằng ngày nay, kinh tế là “kiến thức” và “toàn cầu”, thì sân chơi hay đấu trường không phải là điều quan trọng. Như Alan đã nói nhiều lần, bất cứ dự án làm ăn nào, yếu tố tối ưu là “lợi thế cạnh tranh”. Alan không biết phá rừng để trồng cao su, hay ngăn sông để làm thủy điện hay có quan hệ để mua đất rẻ…(cái này giỡn chút chơi, đừng mách đại ca, ông ấy nổi xung lên thì phiền cả hàng xóm..).

Nghiêm túc hơn, môi trường kinh doanh Việt Nam có nhiều điểm mạnh cho những doanh nhân biết khai thác và phát triển. Ngành nông hải sản, nếu biết ứng dụng công nghệ cao, xanh và sạch, và bảo đảm tính đặc thù cùng chất lượng của sản phẩm, thì cơ hội tràn ngập. Ngành công nghệ thông tin, nếu biết đào tạo đội ngũ chuyên viên, gắn bó lợi ích và động lực, thì khả năng cạnh tranh sẽ có đẳng cấp thế giới. Nhu cầu của các ngành y tế, giáo dục, ngay cả BDS phân khúc rẻ tiền…sẽ vươn mạnh trong thập kỷ tới. Tôi tin vào kỹ năng và sức chiến đấu của các doanh nghiệp tư nhân sẽ mang lại những tài sản to lớn và chính trực cho những ai có tầm nhìn dài hạn, ý chí, kiên nhẫn và sáng tạo.

Tôi hy vọng sẽ tìm được tại quê hương một cơ hội phù hợp với khả năng của mình (thước đo là giá trị thặng dư mà tôi đóng góp). Tuy nhiên, tôi vẫn đang tư vấn cho một vài doanh nghiệp Việt Nam, đem họ ra biển lớn qua M&A, qua việc gây vốn, hay tìm đối tác trong các thị trường tôi đã quen thuộc, Mỹ và Trung Quốc. Các đòi hỏi về công việc này, cũng như những dự án mà tôi định đầu tư với tiền của mình (không xin chánh phủ tiền cứu trợ hay kích cầu), có thể đem tôi ra khỏi Việt Nam một khoảng thời gian dài.

Đây là lý do chính cho câu nói ở bài blog tôi viết trước đây, không phải vì tôi thất vọng hay nản hay bỏ cuộc hay sợ sệt các “thế lực thù địch”. Tôi vẫn yêu đời, vẫn tích cực…và vẫn thanh bình trong cuộc sống, nhưng phải đi tìm “lợi thế cạnh tranh” của mình nếu còn muốn kinh doanh hữu hiệu.

Nói đến thất vọng…tôi cũng xin nói thêm là chúng ta đều đối diện với ít nhiều thất vọng, lớn hay nhỏ, bất ngờ hay mong đợi, trong hành trình mỗi ngày. Từ gia đình đến bạn bẻ, nhân viên đến khách hàng, chủ đến tớ, chính phủ đến dân đen…ai cũng đều có thể mang đến những thất vọng khiến chúng ta nản và mỏi mệt. Người thành đạt thường là người có khả năng thâu ngắn giai đoạn “hậu thất vọng” để tiếp tục bước tới.

Một thói quen khi tôi bị thất vọng là tự nhủ,” OK, cho ông già…(một khoảng thời gian nào đó)…để ông khóc lóc sầu khổ. Hết giờ rồi thì lo mà lau nước mắt để còn đi tìm nguồn vui hay động lực khác”. Tôi không bao giờ cho phép mình khóc quá giờ…vì hành động là cứu cánh cho mọi tự ti. Các bạn BCA nên tập thói quen này. Chẳng hạn, khi bị nhân tình cho rơi, tôi thường giới hạn nước mắt trong 15 đến 45 phút “để tang” cho cuộc tình (tùy con bé đẹp xấu); mất tài sản trên 1 triệu đô là 2 giờ; bị thiên hạ hay vợ mắng oan là 30 phút…Nhưng cho tôi giấu kín thời gian đã khóc khi thất vọng về …văn hóa, kinh tế hay chính trị xứ sở này.

Trong khi đó, một nụ cười tuyệt đẹp trong sương mát đầu xuân có thể làm tâm hồn phơi phới cả ngày; một hoàng hôn rực rỡ nhìn qua sông có thể làm giấc ngủ suốt đêm hiền như mộng trẻ; và một món quà tri kỷ có thể thắm thía cả một đời người.

Tóm lại, thất vọng và niềm vui luôn hiện diện, các bạn BCA đừng quan tâm quá cho mình hay ông già Alan. Bằng một thái độ tích cực sống cho lý tưởng và đạo đức của mình, bằng niềm tin vào một Đấng Tối Cao nào đó, chúng ta sẽ hiểu rằng những cục sạn trên đường chỉ có mục đích làm đôi chân ta cứng cáp ra…Với tầm nhìn dài hạn, life is always beautiful (đời luôn tươi đẹp).

Alan

PS. Một bạn giáo viên khoa học vừa cho biết, “ Khi nằm ngửa, cá mập sẽ rơi vào tình trạng hôn mê”. Tôi nghĩ chúng ta phải tổ chức các tình nguyện viên lén đi lật ngửa các “đại gia lợi ích” khi họ nằm ngủ?

Bù lỗ vào dân: “Trận đánh đẹp” tiếp diễn?

BBC tiếng Việt

Phạm Chí Dũng

Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Cập nhật: 05:08 GMT – thứ ba, 9 tháng 4, 2013

1

 

Thông điệp của Bộ công thương như một sự thách thức đối với dư luận.

Nhưng “Không tăng giá điện vào tháng 4/2013” không có nghĩa là giá điện sẽ không được đẩy lên vào những tháng sau đó, thậm chí ngay vào tháng 5/2013, trùng với kỳ họp Quốc hội diễn ra.

“Trận đánh đẹp”

“Trận đánh đẹp” – như một cụm từ tự hào và tự tôn mà đại tá Đỗ Hữu Ca, giám đốc Công an Hải Phòng, “ưu ái” dành cho ông Đoàn Văn Vươn, đã tạm kết thúc cái phần chưa hề có hậu của nó.

Nhưng một “trận đánh” khác về quốc kế dân sinh lại vẫn không ngừng điểm nổ…

Điện và xăng dầu từ nhiều năm qua đã làm nên cái thế “hiệp đồng binh chủng” xuất sắc như thế.

“Buộc phải tăng giá xăng dầu” – một phát ngôn của Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam, phát lộ trong cuộc họp báo ngay sau đợt tăng giá xăng dầu hoàn toàn bất ngờ của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolinex) vào cuối tháng 3/2013.

Báo chí Việt Nam cũng nhân dịp này để sáng tạo ra một từ mới về nghệ thuật chiến thuật: “Đánh úp”.

“Trận đánh đẹp” cũng vì thế đã được bảo đảm yếu tố bất ngờ như một yêu cầu không thể thiếu của nghệ thuật chiến tranh du kích.

Thuyết minh cho việc vì sao không công bố trước cho dân chúng biết về quyết định tăng giá xăng dầu, giới chức điều hành Bộ công thương nêu ra lý do là “quyết định này đóng dấu “Mật” để tránh bị các nhóm đầu cơ xăng dầu lợi dụng”.

Nhưng bản kết luận của Thanh tra chính phủ về “sai phạm 3.400 tỷ đồng ở Đà Nẵng”, được tung ra vào đầu năm 2013 khi bí thư thành ủy của thành phố này – Nguyễn Bá Thanh – vừa dợm chân ra Hà Nội nhận chức trưởng ban nội chính trung ương, lại như vượt qua toàn bộ giới hạn của quy trình bảo mật vốn được tận tình khép kín.

Tính quy trình bởi thế cũng đang trở nên đảo lộn.

Đánh úp!

Trong nhiều lần trước đây, hành động tăng giá xăng dầu và điện thường diễn ra theo quy trình từ dưới lên, tức phải có văn bản đề nghị từ Petrolimex và Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), sau đó cơ quan chủ quản là Bộ công thương mới “hiệp thông” với một cơ quan khác là Bộ tài chính để quyết định.

“Không phải bất kỳ một quyết định nào được ban hành cũng có thể đặt mọi chuyện vào thế đã rồi như việc tăng giá xăng vừa qua.”

Tuy nhiên, có vẻ như tính quy trình nghiêm cẩn như thế đã thường dẫn đến hệ quả phản quy trình, với điều bị các quan chức phàn nàn là “lọt lộ” thông tin ra báo giới – một “đối tượng” vốn không bao giờ bỏ qua hành vi tăng giá và càng không muốn lãng quên động cơ “bù lỗ vào dân”, kéo theo hành động phản biện diện rộng trong dư luận, giới chuyên gia, cùng giới truyền thông xã hội – “đối tượng” vẫn bị xem là “lề trái” hoặc tốt lành hơn là “lề dân”.

Trong một số trường hợp, không khí phản biện gay gắt và phẫn nộ của xã hội đã làm bật ngửa những người muốn “đánh úp”.

Song, “rút kinh nghiệm sâu sắc” sau mỗi trận đánh cũng là bài học không thể thiếu để những trận đánh sau đó được tốt đẹp hơn.

Không mấy ngạc nhiên là vào lần tăng giá xăng vừa qua, vai trò của Bộ công thương lại trở nên nổi bật và sẵn lòng “đứng mũi chịu sào”, thay cho tình cảnh Petrolimex vẫn luôn bị báo chí chĩa mũi dùi công kích mạnh mẽ như những lần trước đây.

Nhưng vào lần này, vai trò trên còn tỏ ra đắc dụng hơn, đúng nghĩa “cơ quan chủ quản”.

Sau “trận đánh úp” về giá xăng dầu, Bộ công thương lập tức phát đi một thông điệp: người dân có thể “yên tâm” vì giá điện sẽ không tăng vào tháng 4/2013.

Vì sao Bộ công thương lại tỏ ra “nhân đạo” một cách khác thường như vậy?

“Định hướng làm nghèo đất nước”

Cũng “rút kinh nghiệm sâu sắc” từ nhiều chiến dịch tăng giá điện và xăng dầu ít 3ra trong vòng vài năm qua, và đặc biệt hơn là vào năm 2012 trước mỗi kỳ họp của Quốc hội, dư luận trong nước lại có nhiều lý do để không ngớt lo âu.

Với tư cách là “anh em sinh đôi” từ lâu nay, xăng tăng giá luôn dẫn đến giá điện nhảy lên và cứ thế thay phiên nhau làm nên một cuộc đua không tiền khoáng hậu, dẫn dến giá cả hàng tiêu dùng và sinh hoạt tăng vọt cùng bóng ma lạm phát gần 20% của năm 2011 đang lừng lững quay trở lại vào đầu năm nay.

Những ngày cuối năm 2011… Một sự khích lệ lớn lao cho Petrolimex chính là tiền lệ mà EVN đã tiên phong thực hiện thành công khi giá điện được đẩy lên 5% mà không gặp trở ngại đáng kể nào từ phía dư luận, trong khi lại nhận được thái độ đồng thuận của “mẹ đỡ đầu” của nó là Bộ công thương.

Trước đó, dư luận đã “hành hạ” thậm tệ doanh nghiệp độc quyền kinh doanh điện. “Cậu ấm hư hỏng” cũng đã trở thành biệt danh bền vững của công luận dành riêng cho EVN.

Trong bối cảnh EVN đưa ra không ít lý do để tăng giá điện, thì về phía ngược lại, các chuyên gia phản biện xã hội cũng có rất nhiều lập luận phản bác lại những nghịch lý của tập đoàn này.

Một trong những phản biện gia tiêu biểu là TS. Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu Kinh tế – Xã hội Hà Nội, người đã nêu ra bảy nghịch lý về thị trường điện ViệtNam.

Nghịch lý lớn nhất – còn lớn hơn cả giá xăng dầu, là giá điện luôn chỉ có một chiều tăng lên, bất chấp những trồi sụt trên thị trường giá cả trong và ngoài nước. Hoặc, cả nước thiếu điện nhưng một số nhà sản xuất điện tư nhân lại không được ký hợp đồng bán điện với EVN với lý do dây dẫn quá tải, không đủ sức tải lên mạng lưới quốc gia.

Hoặc, ngành điện luôn kêu lỗ do đầu tư đa ngành và thiếu vốn đầu tư nhưng lương nhân viên EVN lại gấp nhiều lần lương trung bình xã hội. Vẫn chưa phải hết, sự lạm dụng khái niệm “an ninh năng lượng” đã được EVN sử dụng như một chiêu trò nhằm phục vụ cho cái “chợ đen” về giá điện của họ được củng cố và thúc đẩy bởi vị trí độc quyền và vai trò độc tôn mà từ đó áp đặt gánh nặng lên đầu người dân, bất chấp ý chí “lấy dân làm gốc” đã trở nên một tiêu ngữ lỗi thời…

Thế nhưng dường như bất chấp làn sóng phản biện, EVN vẫn kiên định về “định hướng làm nghèo đất nước”.

Một trong những lý do chủ yếu mà EVN dùng để thuyết minh cho việc tăng giá bán điện là “bù đắp những khoản lỗ do đầu tư ngoài ngành”.

Số lỗ đó lên đến 31.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 1,5 tỷ USD, cho đến nay vẫn chưa được EVN tự làm rõ.

Từ năm 2011 đến nay, trong nghịch cảnh suy thoái nhưng giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm lại vọt lên đến 50%, số lỗ lũy kế của EVN cũng tiếp tục gia tăng quy mô và giá bán điện vẫn tiếp tục được đẩy cao hơn, bất chấp số doanh nghiệp phải giải thể và phá sản đã lên đến hàng trăm ngàn – như một con số của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào đầu năm 2013.

2

Trách nhiệm của Chính phủ?

Khi cơ chế độc quyền bất chấp tính liêm sỉ vẫn đang dẫn dắt xã hội vào cái ma trận chết người của nó, kẻ đóng thuế chỉ còn lại duy nhất một đặc ân được nhóm lợi ích ban cho – quyền được chọn lựa một trong những phương án tăng giá điện của EVN.

Sẽ thật khó để cho tia hy vọng ổn định lạm phát và đời sống dân sinh còn giữ được chút le lói nếu những mặt hàng kinh tế quốc dân chủ yếu như điện và xăng dầu cứ tiếp tục leo thang, không đếm xỉa gì đến cơn dư chấn lạm phát của năm 2011 đang có cơ hội thuận lợi quay trở lại vào năm 2013 này.

Một khi giá điện vẫn được quyết định bởi một doanh nghiệp còn nguyên thế độc quyền và đặc lợi, sẽ khó có nhà nước nào tiên đoán được, càng không thể giải quyết được những hậu họa kinh tế và thảm họa xã hội gây ra bởi cảnh tượng kinh doanh vô liêm sỉ.

Giờ đây một lần nữa, Bộ công thương lại phát đi thông điệp như một sự thách thức đối với dư luận. Không tăng giá điện vào tháng 4/2013 không có nghĩa là giá điện sẽ không được đẩy lên vào những tháng sau đó, thậm chí ngay vào tháng 5/2013, trùng với kỳ họp Quốc hội diễn ra.

Nếu sự trùng hợp về thời điểm trên thực sự xảy ra, đó sẽ là một minh chứng ghê gớm cho một thứ “quyền lực độc đoán” vẫn còn gần nguyên vẹn trạng thái hoang tưởng trong não trạng những người độc trị.

Đã từng và có thể thêm một lần nữa, tư duy “bù lỗ vào dân” của EVN sẽ khiến sức chịu đựng của người dân được kích thích đến một giới hạn nguy hiểm của phản ứng xã hội.

Phản ứng xã hội cũng đã xảy ra chỉ mới vào tháng 3 năm nay, khi hàng chục ngàn người dân Bulgaria đã đổ xuống đường để phản ứng quyết liệt về tình trạng chính phủ “không làm gì cả” trước hành động tăng giá điện của hai công ty tư nhân.

“Tôi sẽ không tham gia vào một chính phủ mà ở đó cảnh sát có quyền được đánh đập người dân. Chúng tôi cũng có danh dự và lòng tự trọng riêng của mình. Nhân dân đưa chúng tôi lên nắm quyền và chúng tôi sẽ trao trả lại quyền lực cho họ.” Thủ tướng Bulgaria, Boyo Borisov

Cuộc biểu tình trên còn có nguy cơ biến thành một cuộc bạo động đẫm máu.

Dù Thủ tướng Boyko Borisov của Bulgaria đã sa thải bộ trưởng tài chính, nhưng vẫn không xoa dịu được làn sóng phẫn uất từ người biểu tình.

“Tôi sẽ không tham gia vào một chính phủ mà ở đó cảnh sát có quyền được đánh đập người dân. Chúng tôi cũng có danh dự và lòng tự trọng riêng của mình. Nhân dân đưa chúng tôi lên nắm quyền và chúng tôi sẽ trao trả lại quyền lực cho họ” – Thủ tướng Borisov khẳng định trước Quốc hội nước này. Tiếp theo đó vào thượng tuần tháng 3/2013, chính phủ Bulgaria đã quyết định từ chức

Tại Việt Nam, uy tín của Chính phủ có còn được gìn giữ phần nào trong lòng người dân hay không cũng tùy thuộc vào những can thiệp và quyết định sắp tới của thủ tướng về tăng giá xăng dầu và tăng giá điện.

Không phải bất kỳ một quyết định nào được ban hành cũng có thể đặt mọi chuyện vào thế đã rồi như việc tăng giá xăng vừa qua. Không phải bất cứ một chính sách nào gây ảnh hưởng nặng nề đến môi trường dân sinh và dân quyền cũng được bỏ qua một cách rất thiếu suy nghĩ.

P.C.D.

Bài phản ánh quan điểm và cách hành văn của tác giả, một cây viết ở TP Hồ Chí Minh.

Nguồn: BBC tiếng Việt

Nợ xấu Việt Nam: Hiện tồn và biến ảo

Phạm Chí Dũng

Trong khi Thống đốc Nguyễn Văn Bình vẫn đang “nhảy múa” theo những con số nợ xấu, cận cảnh chết chóc có tính dây chuyền của ngân hàng lại có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế, vốn chỉ còn chân đứng rất mong manh.

 

Sau 9 tháng kể từ khi ý tưởng đầu tiên được thai nghén trong bối cảnh đầy tranh cãi, có thể mô hình “Công ty mua bán nợ quốc gia” sắp hiện hình.

Vào thượng tuần tháng 3/2013, trong một hội nghị triển khai các giải pháp tiền tệ ngân hàng tại Đà Nẵng, tác giả khai sinh ra ý tưởng trên là thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Văn Bình đã cho biết từ đầu tháng, Bộ chính trị đã thông qua đề án xử lý nợ xấu và đề án thành lập công ty quản lý tài sản quốc gia.

Nếu không có gì thay đổi, hai đề án trên sẽ được Chính phủ phê duyệt trong nửa đầu năm 2013.

Khuất tất và biến hóa

Cần nhắc lại, trong buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ vào tháng 7/2012, chủ đề Công ty mua bán nợ quốc gia đã lần đầu tiên được một quan chức có trách nhiệm – Bộ trưởng, chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam –  xác nhận thế chân đứng khá mơ hồ của nó. Trước cử tọa báo giới cùng nhiều câu hỏi nghi vấn, ông Đam cũng tỏ ra hoài nghi về gốc gác của con số 100.000 tỷ đồng vốn điều lệ của công ty này và cho rằng “có thể đã có một sự nhầm lẫn nào đó”.

“Sự nhầm lẫn” bị xem là khá tai hại trên lại khởi phát từ ý tưởng thành lập một công ty mua bán nợ có tầm vóc quốc gia với số vốn điều lệ lên đến 100.000 tỷ đồng – được thống đốc Nguyễn Văn Bình nêu ra tại kỳ họp Quốc hội vào trung tuần tháng 6/2012. Theo đó, Ngân hàng nhà nước sẽ có một đề án trình Chính phủ nhằm giải quyết tỷ lệ nợ xấu lên đến 10% trong khối ngân hàng – một số liệu hoàn toàn bất ngờ, tạo nên một chuyển biến hoàn toàn phi logic nếu so sánh với “lộ trình tăng nợ xấu” trước đó.

Lần đầu tiên tính từ phiên họp Quốc hội vào tháng 11/2011, người chịu trách nhiệm điều hành tín dụng của Ngân hàng nhà nước mới thừa nhận tỷ lệ nợ xấu lên đến 10%.

Nhưng trước đó chỉ hơn nửa năm, ông Nguyễn Văn Bình đã báo cáo tỷ lệ nợ xấu chỉ là 3,6%.

Kiểu cách công bố một số liệu quan yếu của tài chính tín dụng quốc gia như tỷ lệ nợ xấu – được báo giới mô tả là “nhảy múa” – đã khiến ngay cả những chuyên gia ôn hòa nhất cũng khó giữ được bình tĩnh với quan điểm và khẩu khí biến hóa của người đứng đầu Ngân hàng nhà nước.   

Ngay sau khi xuất hiện đề xuất về Công ty mua bán nợ quốc gia vào giữa năm ngoái, một lần nữa rất nhiều ý kiến của giới chuyên gia, người dân, báo chí và cả quan chức đã phản bác gay gắt.

“Cứu ai và cứu để làm gì?” là chủ đề chính trong nhiều phản bác như thế.

“Tiền thuế của dân không thể dùng để mua nợ xấu ngân hàng” – viện sĩ Trương Công Phú, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục đầu tư phát triển, chủ nhiệm Hội đồng tư vấn kinh tế thuộc Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam bức bối – “Nhân dân đóng thuế không phải để đi mua nợ, tại sao lại bắt nhân dân phải nai lưng ra gánh chịu những món nợ xuất phát từ những sai lầm của một nhóm người?”.

Bài học còn nóng hổi từ câu chuyện chuyển lỗ và đổ lỗ từ hoạt động kinh doanh thất bát và sai lầm lên đầu người dân vẫn còn nguyên đó – ứng với những minh họa khó tưởng tượng như Tập đoàn điện lực Việt Nam hay Tổng công ty kinh doanh xăng dầu Việt Nam.

Vậy tại sao ngân hàng lại “thích” bán nợ xấu? Cũng theo ông Trương Công Phú, nguy hiểm nhất của nợ xấu là bóng dáng của trục lợi, tham nhũng lấp ló đằng sau đó. Nếu bán được những món nợ ấy thì mọi tội lỗi của các nhóm lợi ích và tham nhũng sẽ được xóa hết, thậm chí còn được hợp pháp hóa những món nợ ấy. Sâu xa của vấn đề bán nợ là do các ngân hàng thương mại sợ khi cơ quan chức năng vào cuộc xử lý sẽ phát hiện ra những khuất tất và sẽ lòi ra nhiều chuyện khác.

Những khuất tất nào? Tựu trung, vẫn là câu chuyện còn trong bóng tối về nợ xấu bất động sản và sự biến hóa của điều được gọi là “nắn dòng chảy tín dụng”.

Quay quắt và nghi vấn

Không phải ngẫu nhiên mà vào cuối năm 2011, một báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đã tiết lộ con số dư nợ cho vay bất động sản thực chất lên đến 348.000 tỷ đồng, gấp 1,8 lần so với con số báo cáo của các ngân hàng thương mại là gần 200.000 tỷ đồng vào cuối năm 2011.

Số nợ xấu bất động sản cũng theo đó mà tăng gấp 8 lần so với số công bố của khối ngân hàng.

Gót chân Asin bắt đầu lộ ra, ở chính nơi mà trong một tâm thế hoang tưởng, người ta luôn tưởng tượng tình hình được củng cố một cách bền vững nhất.

Bắt đầu từ thời điểm sau quý 1/2012, hàng loạt ngân hàng đã buộc lòng phải tiết lộ thân phận nợ xấu của mình. Cũng theo báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 10 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay bất động sản và xây dựng lớn nhất đã mang trên mình số dư nợ cho vay đến 147.000 tỷ đồng.

Nhưng có lẽ đó chưa phải là con số cuối cùng. Bởi nếu căn cứ vào số dư nợ cho vay 348.000 tỷ đồng của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia và khả năng “biến mất” đến 50% như giới phân tích và bản thân một số ngân hàng thừa nhận về tình trạng nợ khó đòi, thì số nợ xấu bất động sản thực tế có thể lên đến 170.000 tỷ đồng.

Cũng lại diễn ra một đánh giá ngoại biên. Vào đầu năm 2013, trong bối cảnh thị trường bất động sản Việt Nam vẫn còn chìm trong cơn mộng du chưa sáng trời, sự xuất hiện của John Sheehan – thành viên của tổ chức giám định bất động sản hoàng gia Anh (FRICS) tại đất nước này có thể được ví như hình ảnh của “kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi”.

Được giới thiệu là người có kinh nghiệm nghiên cứu về 4 chu kỳ phát triển và suy thoái của kinh tế châu Âu và các giai đoạn sụp đổ, phát triển của thị trường bất động sản ở 25 quốc gia trên thế giới, “kẻ gieo rắc nỗi sợ hãi” đã dành cho thị trường Việt Nam một lời bình đặc biệt: “Tôi chia thị trường thành ba giai đoạn: sau khi xảy ra khủng hoảng gọi là giai đoạn phủ nhận, thường khoảng 2 năm; giai đoạn xử lý vấn đề nợ xấu mất khoảng 4 năm; cuối cùng là khi thị trường phục hồi, mất chừng 6 năm. Việt Nam đang ở nấc “phủ nhận””.

Theo kinh nghiệm của John Sheehan, tỷ lệ nợ xấu thực bao giờ cũng cao gấp ít nhất 4 lần con số báo cáo. Với trường hợp Thái Lan vào năm 1996, người ta công bố tỷ lệ nợ xấu là 5%, nhưng đến khi khủng hoảng con số này đã nhảy vọt đến 50%. Hoặc trong trường hợp Irland, nếu năm 2007 nợ xấu được công bố với tỷ lệ 8% thì đến năm 2010, tỷ lệ này đã tăng đến 30% trong bối cảnh khủng hoảng tràn ngập.   

Ông Nguyễn Văn Đực, Phó giám đốc Công ty địa ốc Đất Lành tại TP.HCM, cũng cho báo giới biết hiện có một lượng hàng tồn kho cực lớn đến khoảng 200.000 căn hộ trên cả nước, mà vì nhiều lý do doanh nghiệp không phản ánh đúng, còn cơ quan quản lý lại thống kê khoảng 40.000 căn chỉ theo kê khai của doanh nghiệp vào, tức chỉ bằng 1/5 thực trạng.

Với trường hợp Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu bất động sản được các ngân hàng thương mại báo cáo thường dao động từ 5-8%. Nhưng vào cuối năm ngoái, trong khi giới chuyên gia bất động sản bắt đầu nói toạc ra rằng có đến 50% nợ bất động sản là nợ khó đòi hoặc không thể đòi được, thì một trần thuật của cơ quan thanh tra thuộc Ngân hàng nhà nước đã ước tính tỷ lệ này nằm vào khoảng 40%.

Gần đây, một chuyên gia tài chính của Việt Nam là tiến sỹ Nguyễn Trí Hiếu cũng nhận định về tỷ lệ nợ xấu: “Trong trường hợp xấu nhất theo con tính của tôi là 20%, trên tổng dư nợ 2 triệu tỷ đồng là vào khoảng 540.000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 27 tỷ USD. Cũng có nghĩa là tương đương với khoảng 20% trên GDP của chúng ta”.

Nhưng ngay trong quý 1/2013, thống đốc Nguyễn Văn Bình lại bất ngờ “ép” tỷ lệ nợ xấu trong ngành ngân hàng từ 8,8% về còn 6%. Ngay lập tức, thái độ biến ảo này làm cho báo chí, dư luận và giới chuyên gia phản biện bày rộ lên không ít nghi vấn về một hiện tồn nội tình quá rối ren cùng thái độ quay quắt khó có thể chấp nhận.

Đẩy nợ cho tương lai!

“Tôi nghĩ rằng, con số 6% mà hiện tại chúng ta đang có được điều chỉnh bởi một số khoản nợ được cơ cấu lại theo quy định của ngân hàng Nhà nước” –ông Nguyễn Trí Hiếu dẫn giải – “Năm 2012, Ngân hàng nhà nước cho phép một số tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ. Nếu doanh nghiệp và người vay có khả năng phục hồi, báo cáo tài chính minh bạch, thì ngân hàng nhà nước cho phép cơ cấu lại nợ, nghĩa là được giảm nhóm từ nhóm 5 xuống nhóm 4, nhóm 3 xuống 2, hoặc là 2 xuống 1. Chính điều này là nguyên nhân lớn khiến giảm tỷ trọng nợ xấu rất lớn ở trong ngành ngân hàng”.

Diễn giải có tính ẩn ý của ông Hiếu cần được đối chiếu với thực tế. Vẫn mang tư thế của nhóm đặc quyền, các ngân hàng thương mại cổ phần đã được Ngân hàng nhà nước đặc cách “hướng dẫn tái cơ cấu nợ vay” bằng một văn bản vào tháng 4/2012. Sau văn bản này, có khoảng 250.000 tỷ đồng đã được “sắp xếp lại”, với cách làm sao để nợ xấu chưa thể trở thành nợ nguy cơ trực tiếp, qua đó giúp cho nhiều ngân hàng và doanh nghiệp con nợ tạm tránh thoát sự đe dọa cận kề.

Nhưng trong con mắt của giới phân tích về ngân hàng, hành động trên chỉ là cách “đẩy nợ cho tương lai”. Về bản chất, nợ xấu nói chung và nợ xấu bất động sản vẫn không thay đổi, nếu không muốn nói là còn tăng lên theo thời gian do nhiều con nợ đến hạn phải trả nhưng lại không thanh toán được. Do vậy, phương châm “đẩy nợ cho tương lai” chỉ đắc dụng một khi các con nợ tìm cách tiêu thụ được hàng tồn kho và trả được nợ.

“Vấn đề hiện nay là phải xem đã có bao nhiêu doanh nghiệp được cơ cấu nợ đã có khả năng phục hồi tình trạng tài chính của mình và trả nợ cho ngân hàng” – chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu tiếp tục dẫn giải – “Tôi đã được đọc một báo cáo của Ngân hàng nhà nước vào cuối năm 2012 cho biết rằng số nợ xấu nếu cộng cả những nợ được tái cơ cấu thì lên đến khoảng 17,21% của tổng dư nợ. Như vậy, những nợ được cơ cấu đó nếu không thực sự được phục hồi thì cho đến thời điểm này (2013), nợ xấu có thể lên đến 20% trên tổng dư nợ. Đây là ngưỡng mất an toàn”.

Vậy tình hình một năm qua, từ lúc văn bản “tái sắp xếp nợ vay” của Ngân hàng nhà nước được triển khai, đã “an toàn” đến mức nào? Điều không thể đáng buồn hơn là mọi chuyện dường như vẫn không hề thay đổi. Nói cách khác, “thời điểm Minsky” – một khái niệm trong tài chính quốc tế về đáo hạn nợ vay – đang đến rất gần, nhưng tình thế vẫn chưa có chút nào khả quan.   

96% là tỷ lệ sụt giảm lợi nhuận của các ngân hàng trên địa bàn TP.HCM trong năm 2012 so với năm trước đó. Sự công bố được coi là chấn động này – đến từ chính Ngân hàng nhà nước chi nhánh tại TP.HCM – đã lần đầu tiên xác nhận cái được gọi là nguy cơ không chỉ còn phôi thai: sẽ có nhiều ngân hàng “băng hà” vào cuối năm 2013 nếu không tự giải quyết được “món nợ xương máu” từ thị trường bất động sản. Hơn thế nữa, hình ảnh chết chóc có tính dây chuyền của ngân hàng lại có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế, vốn chỉ còn chân đứng rất mong manh.

“Tôi tin rằng vấn đề xử lý nợ xấu có lẽ phải ít nhất là 5 năm nữa, một chặng đường rất dài chứ không phải chỉ đến năm 2015” – chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu khẳng định.

Sau 9 tháng “lobby”, cho đến nay mô hình công ty quản lý tài sản quốc gia vẫn đang tắc nghẽn bởi mục đích tự thân của nó. Theo cách đánh giá của Vụ pháp luật dân sự – kinh tế thuộc Bộ tư pháp, công ty này mới dừng ở việc xử lý nợ giữa các tổ chức tín dụng với nhau, trong khi mối quan tâm hiện nay là xử lý nợ xấu giữa doanh nghiệp và tổ chức tín dụng vì nợ xấu và hàng tồn kho đang tập trung rất lớn ở các doanh nghiệp.

Dĩ nhiên, mục tiêu chỉ xử lý nợ xấu cho các tổ chức tín dụng sẽ không thể làm người ta nghĩ khác về động cơ chỉ “cứu” ngân hàng – một nhóm lợi ích đặc thù đã làm mưa làm gió ở Việt Nam trong những năm gần đây.

P.C.D.

( ABS)

BÊN TƯỢNG MỴ CHÂU

 

      * MINH DIỆN
             Blog Bùi Văn Bồng

 Cây đa cổ thụ sum xuê trùm bóng xuống cửa tam quan Ngự Triều Di Quy, nơi thờ các quan văn, quan võ nước Âu Lạc , kế bên là  am thờ công chúa Mỵ Châu. Kinh đô Âu Lạc sừng sững nguy nga hai thiên niên kỷ trước chỉ còn lại vài phế tích. Những rừng đa, rừng mai, rừng dâu  ngày xưa, giờ là tên làng, tên phố, như Gia Lâm, Mai Lâm,Du Lâm. Những xưởng đúc tiền, đúc tên, rèn gươm, rèn giáo, giờ là ruộng vườn  xanh ngút ngát.

          Thành Cổ Loa sót lại vài đoạn, cây cối, rêu phong phủ kín . Đứng giữa nguyên sơ, nhắm mắt lại với tấm lòng thành kính thả hồn vào dĩ vãng, mường tượng ra Thủ đô nước Việt xưa giữa vầng hào quang huyền thoại và lịch sử.  
           Đây Cổ Loa thành hình xoắn ốc vút cao. Đây Đại Nội nguy nga lầu son gác tía. Đây Thành Trung nườm nượp bóng lạc hầu lạc tướng. Đây Thành Ngoại với đội quân thị vệ oai nghiêm. Và  ngoài kia  Đầm Cả, Hoàng Giang, Thiệp Ngũ Huyền Khuê, những bến nước, dòng sông mênh mang, nhộn nhịp thuyền chiến,  thuyền buôn .
             Hơn hai ngàn năm trước, An Dương Vương đã nghe lời khuyên của tướng quân Cao Lỗ, dời đô từ Phong Châu  về  châu thổ sông Hồng ,  kiểm soát  một vùng rộng lớn cả  đồng bằng  và núi rừng trùng điệp,  đánh dấu một giai đoạn phát triển dân cư Việt cổ, chuyển từ nền kinh tế hái lượm bán sơn địa sang nền kinh tế định cư, mở rộng thông thương thủy bộ,và định hình nền văn hóa Đông Sơn. Ngày ấy tổ tiên ta đã khảng khái ngẩng cao đầu khi chọn Thủ đô ở bờ Bắc sông Hồng, đối mặt với ngoại xâm, trong tư  thế  chỉ  tiến, không lùi. Tướng quân Cao Lỗ đã chứng tỏ bản lĩnh của mình, đồng thời buộc các tướng sỹ dưới quyền phải luôn cảnh giác trước kẻ thù phương Bắc.  Ông  xây thành Cổ Loa hình xoắn ốc bên  hào sâu, sáng chế ra nỏ Liên Châu, một lần bắn mười mũi tên đồng, có thể giết mười tên giặc. Quân Triệu Đà thuở ấy, nghe nói đến nỏ Liên Châu của nước Âu Lạc là tim đập như trống, nhìn thấy nỏ Liên Châu là tay chân rụng rời…
 
 
          Nhưng lâu đài thành quách cũng như Vương Triều Âu Lạc bỗng chốc tan thành mây khói chỉ vì mất cảnh giác trước tham vọng và mưu mô xảo quyệt của kẻ thù phương Bắc.
               Hơn bốn chục năm trước, Tố Hữu đổ tội cho nàng Mỵ Châu:
                  Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
                   Trái tim lầm chỗ để trên đầu!
                   Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
                   Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu !
              Sự thật đâu phải như vậy! Nàng công chúa Mỵ Châu chẳng làm nên cái tội tày đình ấy. Kẻ làm cho cơ đồ Âu Lạc “ đắm biển sâu” chính là An Dương Vương và các lạc hầu.
            Sau nhiều lần mang quân xâm lược thất bại, Triệu Đà cho sứ sang giảng hòa với nhà nước Âu Lạc, và   ngỏ lời cầu hôn công chúa Mỵ Châu  cho con mình là Trọng Thủy.
             Hiểu được âm mưu thâm độc của kẻ thù, Cao Lỗ hết lời khuyên can An Dương Vương. Nhưng lóa mắt trước lễ vật bạc vàng châu báu, và  nghe lời xiểm nịnh của các lạc hầu, An Dương Vương bỏ ngoài tai lời can dán của Cao Lỗ, ông đành  phải  bỏ kinh thành  về quê ở ẩn.
            Nàng Mỵ Châu xinh đẹp, nết na theo sự sắp đặt của vua cha,  kết duyên với Trọng Thủy . Trái tim trong sáng  như  ngọc  của nàng  chỉ biết rung động trước tình yêu đầu đời,  bộ óc ngây thơ của nàng làm sao hiểu được âm mưu thâm độc của Triệu Đả, lừa được cả vua cha và bao nhiêu lạc hầu lạc tướng?  Nàng yêu Trọng Thủy,  đâu ngờ đó là tên  gián điệp mang bộ mặt thần ái tình?
             Trọng Thủy  đánh cắp toàn bộ bí mật hệ thống phòng thủ thành Cổ Loa,  đặc biệt là “nỏ thần” Liên Châu, rồi  lấy cớ về chịu tang  mẹ sau những tháng ngày đóng trọn vai chàng rể hiền phương Bắc.
                  Và điều Cao Lỗ tiên đoán đã sảy ra. Triệu Đà mang quân xâm lược Âu Lạc. Với tấm lòng tận trung với nước, Cao Lỗ quay lại kinh thành chỉ huy kháng chiến. Nhưng quân Triệu Đà mạnh như  chẻ tre, lại nắm được hết các bí mật của  Âu Lạc, từ hệ thống phòng  thủ  đến các loại vũ khi , đặc biệt là nỏ Liên Châu, nên đánh đâu thắng đó.
                 Tướng quân Cao Lỗ tử trận. Thành  Cổ Loa thất thủ.
                 An Dương Vương cùng con gái lên ngựa chạy về phương Nam.
                 Chuyện kể rằng , khi tới đèo Mộ Dạ, ngựa kiệt sức dừng bước,  An Dương Vương ngẩng  mặt lên trời khần cầu Thần Kim Quy giúp. Thần Kim Quy hiện lên bảo : “ Giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua đó!” An Dương Vương quay lại thấy công chúa Mỵ Châu  rút lông ngỗng thả xuống đường ,  và  quân Triệu Đà theo dấu lông ngỗng đuổi theo. An Dương Vương bèn rút gươm chém công chúa Mỵ Châu.
         Trước khi chết,  Mỵ Châu nói với vua cha: “ Nếu con có lòng phản lại  cha,  xương thịt con sẽ thành cát bụi. Nếu trái tim con trong sạch con sẽ hóa thành đá trở về Cổ Loa thành và ở bên cha!”
             Lời nguyện  của công chúa Mỵ Châu đã thành sự thật. Nàng  đã hóa thân thành bức tượng đá cụt đầu  vể Cổ Loa thành
 
          Hơn hai ngàn năm đã qua , bao nhiêu cuộc chiến tranh  tàn phá Cổ Loa thành, bao  lớp bụi thời gian  phủ lên kinh đô Âu Lạc. Huyền thoại và lịch sử đan sen vào nhau. Màn sương huyền thoại bao phủ lên những sự kiện lịch sử , nhưng dưới lớp sương mù ấy , lịch sử vẫn trường tồn . Cuộc đời và sự nghiệp cùa Tướng quân Cao Lỗ, nỏ Liên Châu, thành Cổ Loa,sự thăng trầm của nhà nước  Âu Lạc gắn liền với công tội cùa An Dương Vương… Trong  muôn vàn sự kiện mông lung,  nàng Mỵ Châu  làm nhói lòng hết thế hệ này đến thế hệ khác. Nàng vẫn trẻ trung, thơ dại. Trái tim nàng vẫn đập thoi thóp trong những trái tim, muốn cất lên lời trăn trối,  đòi sự công bằng.
           Ông thủ từ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện nàng  Mỵ Châu hiển linh báo mộng cho  bà Trưng Trắc, Trưng Nhị , xin được trả hận  và rửa nỗi oan ức cho minh,  khi hai vị liệt nữ ngủ đêm ở Cổ Loa,  chuẩn bị đánh Tô Đinh ở thành Luy Lâu, và  những câu chuyện truyền tụng trong dân gian từ bấy đến nay. Hình như nàng Mỵ Châu vẫn chưa nhắm mắt được.  Mối oan cừu, và lòng căm thù thói đen bạc  đè nặng lên người nàng. Nàng không thể làm con ma không đầu !
          Tôi vén vạt áo gấm,  đặt bàn tay vào vai bức tượng đá không đầu mà hết thảy mọi người dân ở Cổ Loa đều tin  đó là hóa thân của nàng Mỵ Châu. Bàn tay tôi bỗng lạnh buốt. Hơi lạnh từ pho tượng tỏa ra làm toàn thân tôi  run lên . Tôi bỗng nhớ bài thơ Dịch thủy tống biệt, của Lạc Tân Vương:
                                Thử địa biệt Yên Đan
                                Tráng sỹ phát xung quan
                                Tích thời nhân dĩ một
                                Kim nhật thủy do hàn!
           Sự hờn căm của Thái tử Đan, làm dựng tóc người, và  nước sông ngàn năm còn lạnh. Liệu có thể so với nàng công chúa Mỵ Châu? Nàng  hóa đá trôi ngược từ Nam ra Bắc về nơi  Đất Tổ. Nàng lạnh như băng bởi nỗi oan và căm hờn !  
            Chúng tôi thắp nhang trước am thờ Mỵ Châu,và  mượn bài thơ của một tác giả trẻ, hát bải xẩm Xoan, mong linh hồn Công chúa nguôi ngoai:
                                    Ngàn năm như một màn sương,
                          Ai người gỡ mối tơ vương hỡi nàng,
                                    Mỵ Châu, Trọng Thủy tình vương,
                          Ma đưa lối, quỷ dẫn đường từ đâu?
                                   Cớ gì giặc lập mưu sâu?
                         Nam nhân kế, binh pháp Tàu mà ra!
                                   Giang sơn binh lửa mất còn
                         Mỵ Châu sao phải chịu oan hỡi trời?
                                  Thế nhân bao chuyện khóc cười,
                         Vì nàng nên có đôi lời phân minh
                                   Lập đàn xử An Dương Vương
                         Tội khinh suất để Bắc phương cướp nhà.
                                     Một giây tan tác sơn hà,
                         Vết nhơ mãi mãi chẳng nhòa sử xanh!
                                     Lạy núi cao lạy sông sâu,
                         Thời gian bắc một nhịp cầu nhân gian!
                                     Đời sau xin muốn luận bàn
                         Giặc phương Bắc với quan tham một loài!
         Chúng tôi vừa ngừng lời thì bát nhang trên bàn thờ bùng cháy.
M.D                                                                                                   

TS.Alan Phan trả lời thẳng 15 câu hỏi cứu bất động sản

 

Cập nhật: 12:15, 31/03/2013 (GMT+7)

(ĐVO) – Ngày 31/3, TS. Alan Phan đã thông qua Báo Đất Việt, trả lời 15 câu hỏi của CLB BĐS Hà Nội đặt ra với bài viết “Nên để thị trường Bất động sản rơi tự do” trước đó.

 

Báo Đất Việt xin được đăng nguyên văn câu trả lời của TS. Alan Phan
 
TS. Alan Phan
TS. Alan Phan

THƠ GỞI HIỆP HỘI BẤT ĐỘNG SẢN

Kính thưa Quý Vị
 
Dù chỉ mới nhận được 15 câu hỏi “chất vấn” của Quý Vị qua báo chí, tôi cũng xin phản hồi sớm vì sự mong đợi của rất nhiều đọc giả; cũng như để tỏ lòng tôn kính với “1,000 (?) đồng nghiệp” của tôi. Tôi cũng đã từng làm một nhà đầu tư dự án BDS (real estate developer) ở tận xứ Mỹ xa xôi vào cuối thập niên 1970’s. Sau 7 năm huy hoàng với lợi nhuận, tôi và các đối tác đã trắng tay trả lại mọi vốn và lời trong dự án lớn ở Arizona vào năm 1982. Do đó, tôi khá đồng cảm với trải nghiệm “của thiên trả địa” hiện tại của Quý Vị.
 
Tôi không quen bị “chất vấn”, không phải là một cậu học trò phải thi trắc nghiệm, cũng không có “quyền lợi” hay “nghĩa vụ” gì trong tình huống này, nên xin phép được trả lời các bậc đàn anh theo phong cách của mình. Vả lại, những chi tiết nhỏ nhặt của 15 câu hỏi đã được “trả lời” qua các bài viết của tôi trong vài năm qua (còn lưu lại tại http://www.gocnhinalan.com). Thêm vào đó, nhiều BCA (bạn của Alan) cũng đã ra công sức phản biện qua các lời bình trên trang web này và các mạng truyền thông khác. Quý Vị tự tìm tòi nhé.
 
Cốt lõi của vấn đề
 
Một khuynh hướng chung khi tìm giải pháp cho vấn nạn BĐS hiện nay của Việt Nam là đóng khung bài toán trong các công thức tài chánh. Vài doanh nghiệp BĐS nhờ tôi tư vấn tìm vốn vì họ nói không thể tiếp cận được các nguồn tài trợ. Câu trả lời của tôi là vấn đề BDS thuộc chuyện thị trường.
 
Vốn trong dân tại Việt Nam được các nhà chuyên gia nước ngoài ước tính vào khoảng 60 tỷ USD; và vốn từ Việt kiều và các nhà đầu tư ngoại có thểlên thêm khoảng 20 tỷ (các số liệu này có thể sai nhưng chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một thống kê chính xác và chính thống về các con số nhạy cảm ở Việt Nam). Tuy nhiên, dù với con số nào, số tiền này cũng thừa đủ để giải quyết mọi hàng BĐS tồn kho.
 
Trên góc cạnh thị trường, khi người bán đáp ứng được nhu cầu người mua về sản phẩm và dịch vụ (gồm nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là giá cả và chất lượng) thì giao dịch xẩy ra. Do đó, câu hỏi cốt lõi là những BĐS mà quý vị đã và đang sản xuất có mức giá và chất lượng theo đúng nhu cầu của người tiêu dùng chưa? Theo tôi biết, nhu cầu về phân khúc nhà cho người thu nhập thấp rất cao; nhưng sản phẩm gần như quá ít. Trong khi đó, nguồn cung cầu tại phân khúc nhà cao cấp lại mất cân bằng và lượng tồn kho có thể phải mất 10 năm mới tiêu thụ hết.
 
Tóm lại, khủng hoảng BĐS hiện nay là một tính toán sai lầm của nhà sản xuất BĐS về giá cả và loại hàng.
 
Giá thành quá cao?
 
Nhiều người trong Quý Vị biện bạch là giá BĐS cao ngất trời vì giá đất, giá nguyên vật liệu, chi phí hành chánh và bôi trơn…quá cao. Thật tình, lý giải này chỉ chứng tỏ tính chất làm ăn thiếu hiệu quả vì không biết những tính toán căn bản về đầu tư cho dự án; cũng như cho thấy yếu kém của các quyết định bầy đàn và chụp giựt.
 
Nhưng đôi khi, tình thế ngoại vi cũng có thể làm sai trật mọi tính toán. Chẳng hạn khi tôi bắt đầu dự án Arizona nói trên vào 1979, chúng tôi đã không ngờ là lãi suất lên đến 16-18% mỗi năm khi hoàn tất, thay vì 8-9% như dự tính. Giá nhà vẫn hợp lý, nhưng phần lớn người Mỹ mua nhà bằng tín dụng, nên dự án phải phá sản. Dù không phải lỗi của chủ quan, nhưng chúng tôi hiểu rõ luật chơi của thị trường và cúi đầu chấp nhận.
 
Người mua nhà, hay ngay cả vợ con bạn bè của Quý Vị, thật sự không quan tâm đến lý do tại sao giá nhà lại cao hay thấp thế này? Vừa mua thuận bán thôi.
 
Một chút lịch sử
 
Dĩ nhiên, tất cả bàn luận trên đây dựa trên quy luật thị trường. Nhiều bạn sẽ nói là nền kinh tế chúng ta có “định hướng xã hội” nên chính phủ phải nhảy vào can thiệp hay cứu trợ khi “con cái” gặp hoạn nạn.
 
Chắc Quý Vị còn nhớ, có khi giá nhà đất lên cao cả mấy trăm phần trăm mỗi năm vào thập kỷ 1995-2006, không ai kiến nghị chánh phủ phải can thiệp để cứu người tiêu dùng bằng cách ngăn chận mọi sự tăng giá (nhiều khi phi pháp). Các nhà sản xuất BDS quên mất “định hướng xã hội” của Việt Nam và ủng hộ triệt để nguyên lý thị trường.
 
Bây giờ, vào nửa hiệp sau của trận bóng, các cầu thủ lại yêu cầu trọng tài áp dụng một luật chơi mới? Tính bất nhất này làm mọi biện luận của Quý Vị trở nên ngây ngô cùng ngạo mạn.
 
Hệ quả khi bong bóng BĐS nổ
 
Trước hết, khi nói về hệ quả, tôi xin mọi người ghi nhận công trạng của những nhà đầu cơ BĐS trong việc tạo ra khủng hoảng hiện nay. Tất cả những suy thoái, trì trệ và việc kém hiệu quả trong các đầu tư để công nghiệp hóa hay gia tăng sản lượng nông, hải, sản…đều có thể truy nguồn đến những bong bóng tài chánh như BDS, chứng khoán và ngân hàng. Khi dòng tiền tấp nập chảy về lãnh vực này để hưởng lợi nhuận dễ dàng và nhanh chóng, chúng ta đã hy sinh những đầu tư xã hội cần thiết và dài hạn như y tế, giáo dục, công nghệ cao, nông nghiệp…Tai hại của sự lãng phí và tham ô trong việc sử dụng tài lực quốc gia này sẽ làm cả dân tộc trả giá trong nhiều thập kỷ sắp đến.
 
Nếu nhìn từ định hướng CNXH, các doanh nhân và quan chức có liên hệ đến việc đầu cơ, thao túng và lèo lái dòng tiền đầu tư…để thổi phồng các bong bóng tài sản đều có thể bị kết tội dưới nhiều luật lệ. Hú hồn. May mà Quý Vị còn chữ “kinh tế thị trường” để mà núp bóng.
 
Ngoài ra, về các hệ quả tương lai khi bong bóng BĐS nổ, Quý vị đã tự đặt cho mình một vị trí quá quan trọng trong nền kinh tế chung. Dĩ nhiên có thể hơn 50% các doanh nghiệp kinh doanh BĐS và vật liệu xây dựng cũng như 50% các ngân hàng nhỏ yếu sẽ chết vì nợ xấu…nhưng tôi chắc chắn là “không có Mợ thì chợ vẫn đông”. Thực ra, những doanh nghiệp, ngân hàng…này cũng đã chết lâm sàng rồi. Họ kéo dài hơi thở để đợi chút oxygen từ tiền thuế và phí của người dân. Hiện tại, họ không đóng góp chút gì cho sản lượng quốc gia trong khi tiếm dụng một phần nguồn lực không nhỏ.
 
Về các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, một số lớn đã ngất ngư vì không thể cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc, Thái Lan…tại sân nhà hay sân người. Đổ lỗi cho tình hình BĐS chỉ là một thủ thuật phát sinh từ thói quen lười biếng.
 
Con ngáo ộp thứ hai Quý Vị đem ra hù dọa là con số vài chục ngàn trong số 53 triệu công nhân toàn quốc (với tỷ lệ thất nghiệp khoảng 2.2% theo thống kê nhà nước) sẽ bị ảnh hưởng khi bong bóng BĐS nổ tung. Nếu nền kinh tế chúng ta phát triển bền vững và bài bản, sự tạo ra việc làm cho các công nhân này chỉ là chuyện nhỏ.
 
Con ngáo ộp thứ ba của Quý vị là các người dân bỏ tiền trong các ngân hàng sẽ chịu mất mát khi vài ngân hàng đóng cửa. Theo tôi hiểu, mỗi tài khoản hiện nay được bảo hiểm đến 50 triệu VND và đang được NHNN đề xuất lên 100 triệu VND (vì lạm phát nhiều năm qua). Tỷ lệ mất mát cho những tài khoản trên 100 triệu VND tại các ngân hàng sẽ rất nhỏ; vì các nhà đa triệu phú thường không ngu để mất tiền như Quý Vị tiên đoán. Họ có nhiều giải pháp sáng tạo hơn Quý Vị và nhà nước nhiều.
 
Những hệ quả tích cực
 
Trong bài “Thị trường sẽ cứu chúng ta” (www.gocnhinalan.com) tôi đã ghi nhận 5 hệ quả tích cực hơn khi bong bóng BĐS nổ. Đó là số lượng vài trăm ngàn gia đình lần đầu sở hữu một căn nhà vừa túi tiền, hiện tượng tâm lý “an cư lạc nghiệp” tạo cú kích cầu tiêu dùng, gây lại niềm tin cho kinh tế, loại bỏ các thành phần phi sản xuất yếu kém, tăng thu ngân sách và thu hút đầu tư nội ngoại.
 
Trong đó, quan trọng nhất là việc tạo một tầng lớp trung lưu mới, hết sức cần thiết cho mọi sự phát triển bền vững. Nhìn qua các xã hội đã mở mang tại Âu Mỹ Nhật Úc, tầng lớp trung lưu với những tài sản thâu góp được thường là đầu tàu cho chiếc xe kinh tế. Họ tạo ra thị trường tiêu dùng lớn nhất, họ đóng thuế nhiều nhất, họ làm việc cần cù nhất, họ nợ nhiều nhất (tốt cho ngân hàng và các ông chủ), họ có niềm tin cao nhất vào đất nước …vì họ có quá nhiều thứ để mất. Một xã hội bất ổn là khi phần lớn người dân không có gì để mất.
 
Hệ quả khi bong bóng không nổ
 
Tôi thì lại lo sợ về những hệ quả trái ngược nếu quyền lực của Quý vị thành công và thuyết phục nhà nước bơm tiền dân cứu Quý Vị và các ngân hàng yếu kém.
 
Trước hết, nền kinh tế zombies (xác chết biết đi) này sẽ kéo dài ít nhất là một thập kỷ nữa.
 
Khi phải in tiền đủ để cứu trợ, nạn lạm phát sẽ bùng nổ lại và tỷ giá VND sẽ rơi. Nhiều người đã quay qua Mỹ quan sát về các gói cứu trợ ngân hàng tư và đề nghị NHNN dùng giải pháp này cho Việt Nam. Một ghi chú nhỏ: chánh phủ Mỹ cho các ngân hàng này vay vốn với lãi suất cực rẻ; nhưng không cứu các doanh nghiệp hay giá BĐS; và sau khi gây lại vốn sở hữu bị mất trong cuộc khủng hoảng tài chánh 2008, hầu hết các ngân hàng đã trả tiền lại cho chánh phủ. Giải pháp này không thể thực hiện ở Việt Nam vì các ngân hàng thương mại Việt không đủ uy tín, thương hiệu, tầm cỡ, tính minh bạch hay khả năng quản trị để tiếp cận nguồn vốn nội hay ngoại (vẫn rất dồi dào).
 
Chánh phủ hiện đã bội chi vì các vấn đề kinh tế xã hội từ khủng hoảng và nguồn thu từ thuế và phí đang bị thu hẹp đáng kể. Dùng những tài lực hiếm hoi để nuôi các zombies phi sản xuất là kéo dài cuộc suy thoái cho các thành phần khác trong nền kinh tế.
 
Nhưng tệ hại nhất là khi tung tiền cứu nguy cho “bồ nhà”, chánh phủ sẽ gởi một thông điệp bào mòn mọi niềm tin còn sót lại của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là: “mọi sai phạm lầm lẫn sẽ được che đậy và bảo vệ; và các quy luật của thị trường có quyền đi “nghỉ mát” khi quyền lợi của các nhóm lợi ích bị xâm phạm”.
 
Những giải pháp sáng tạo
 
Sau cùng, nếu con phượng hoàng có thể bay lên từ đống tro tàn thì các zombies cũng có thể tái tạo lại một đời sống mới. Trong nền kinh tế trí thức toàn cầu này, sáng tạo vẫn là một điều kiện tiên quyết cho mọi doanh nghiệp.
 
Tôi không kinh doanh BĐS từ năm 1982, nên tôi không dám “múa rìu qua mắt thợ”. Nhưng tôi nhận thấy có những đại gia “thật lớn” của BĐS đã phát triển mạnh trong khủng hoàng này. Bầu Đức của HAGL chọn giải pháp “xuất ngoại” khi bán tháo BĐS tại Việt Nam và đem tiền đổ vào Lào và Myanmar. Ngài Vượng của Vincom đạt được danh tỷ phú đô la với phân khúc trung tâm thương mại cao cấp trong thời bão táp. Mr. Quang của Nam Long thì thành công với vốn ngoại và mô hình EHome cho phân khúc trung lưu. Các trường hợp phát triển như anh Thìn Đất Xanh hay anh Đực Đất Lành là những thí dụ khác.
 
Trong lãnh vực vật liệu xây dựng, sản phẩm nhà tiền chế theo dây chuyền hay các vật liệu từ công nghệ cao và xanh đã biến nhiều doanh nhân thế giới thành tỷ phú. Trí tuệ Việt chắc chắn phải có rất nhiều…Ngô Bảo Châu…trong ngành BĐS. Đây là tương lai của BĐS Việt trong mong đợi của mọi người; không phải hình ảnh của các zombies níu kéo vào dây trợ sinh trên giường bệnh.
 
Thay cho lời kết
 
Tôi thực sự khâm phục khả năng lobby của Hiệp Hội BĐS và các thành viên. Tạo được một bong bóng khiến giá trị BĐS lên đến 25 lần thu nhập trung bình của người dân là một thành tích đáng ghi vào kỷ lục Guinness. Tôi cũng tiên đoán là chánh phủ rồi cũng sẽ tung nhiều gói cứu trợ BĐS mặc cho sự can gián của nhiều chuyên gia và đa số người dân. So với Quý Vị, tiếng nói của chúng tôi không đủ trọng lượng để chánh phủ lưu tâm.
 
Do đó, cuộc tranh cãi nên dừng lại ở đây để những người dân chưa có nhà không nên kỳ vọng vào một phép lạ trong tương lai gần.
 
Nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn mang nhiều hy vọng. Có thể một lúc nào đó, những tinh hoa của đất Việt sẽ quên đi quyền lợi cá nhân của mình và gia đình…để san sẻ lại cho các người dân kém may mắn hơn. Không phải để làm từ thiện, mà nhận trách nhiệm rộng lớn hơn với cộng đồng, và với thế đứng của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Để doanh nhân Việt được tự hào với tư duy sáng tạo cởi mở và khả năng vượt khó bền bỉ. Để thế hệ sau còn có chút niềm tin và lực đẩy khi họ phải ra biển lớn cạnh tranh.
 
Riêng đối với những vị đã mất mát tài sản vì sai phạm đầu tư, tôi xin chia sẻ nơi đây câu thơ của tiền nhân mà tôi tự an ủi mình sau khi ký giấy trao lại cho ngân hàng toàn bộ dự án Arizona và ra đi với bàn tay trắng,” Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu…Gặp thời thế thế thì phải thế”. Dù sao, chỉ 3 năm sau đó, tôi lại kiếm được nhiều tiền hơn trong một mô hình kinh doanh khác.
 
Mong Quý vị mọi điều may mắn và mong tinh thần “kẻ sĩ” mãi cháy sáng trong cuộc đời Quý vị.
 
Thân ái!
 
Alan Phan

 

15 câu hỏi của CLB BĐS Hà Nội dành cho TS. Alan Phan
 
1. Ông cho rằng, doanh nghiệp BĐS “chết”, nhà băng “chết”, chứng khoán tụt giảm… cũng không sao, miễn là Chính phủ bảo đảm người dân sẽ không mất tiền. Vậy, xin ông cho biết giải pháp mà Chính phủ cần phải làm để bảo đảm người dân sẽ không mất tiền nếu tình trạng nêu trên xảy ra?
 
2. Hầu hết các dự án nhà ở thương mại, người dân đã đóng một phần tiền, thậm chí là rất nhiều tiền, nếu phá sản chủ đầu tư không tiếp tục xây và không thể giao nhà cho họ, cũng không có khả năng hoàn trả tiền; vậy ai sẽ là người mất tiền?
 
3. Hiện nay, các doanh nghiệp BĐS thường chỉ có từ một đến vài chục phần trăm vốn tự có, phần còn lại là vay ngân hàng (mà ai cũng biết ngân hàng là DN kinh doanh từ tiền gửi tiết kiệm của nhân dân). Vậy nếu các doanh nghiệp BĐS phá sản, kéo theo hệ thống ngân hàng có thể sẽ sụp đổ; lúc này thực chất, ai sẽ là người mất tiền?
 
4. Ông đã nhận định rằng, để thị trường rơi tự do, giá nhà có thể giảm thêm 30-50% nữa. Vậy theo ông, khi giảm đến mức đó mới là “giá trị thực” (bằng mức đầu tư của doanh nghiệp) hay đã thấp hơn? Tóm lại là, theo ông, nếu giá BĐS giảm tới 50%  thì đã bằng giá thành đầu tư dự án hay còn xuống sâu hơn nữa mới bằng giá thành xây dựng?  
 
5. Theo đánh giá của ông, giá BĐS tại Việt Nam được hình thành từ những cơ sở nào? Và ông căn cứ vào cơ cấu giá như thế nào để đưa ra nhận định đó?
 
6. Giá nhà ở Việt Nam hiện nay có thể chưa phù hợp với thu nhập của phần lớn người dân Việt Nam; song như chúng ta đã biết, để tạo nên một sản phẩm BĐS, hiện nay chúng ta phải nhập khẩu rất nhiều các nguyên vật liệu, trang thiết bị cao cấp (Việt Nam chưa sản xuất được hoặc có sản xuất cũng chưa đạt yêu cầu của người tiêu dùng), điều này góp phần rất lớn làm đội giá BĐS lên cao. Vậy có phù hợp không khi chúng ta lấy mặt bằng thu nhập của người dân để đòi hỏi giá nhà phải tương xứng?
 
7. Căn cứ vào cơ sở khoa học nào để ông đưa ra nhận định: Không cần giải cứu, địa ốc sẽ đi lên sau 4-5 năm? 
 
8. Như ông cũng biết, đa phần các doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ là động lực phát triển của nền kinh tế và tạo công ăn việc làm. Nếu bây giờ thúc đẩy cho họ phá sản hết thì bao giờ chúng ta mới khôi phục được hạ tầng kinh tế này?
 
9. Ông có biết, hiện nay tại Việt Nam có bao nhiêu ngành, lĩnh vực sản xuất và bao nhiêu người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động của thị trường BĐS (công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vật liệu, xây dựng, bán hàng, quản lý…) hay không? Nếu để thị trường BĐS “rơi tự do”, phá sản dây chuyền, điều gì sẽ xảy ra và cuộc sống của những người hoạt động trong lĩnh vực này cũng như gia đình họ sẽ ra sao?
 
10. Ông có thiện chí giới thiệu hoặc tham gia cùng những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh ở Mỹ hay Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư những dự án nhà ở giá rẻ không? Người dân sẽ đánh giá rất cao tư cách và trách nhiệm của ông nếu ông làm được việc này.
 
11. Hạ tầng, cảnh quan đô thị của Việt Nam (ít nhất là 2 thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM) hiện nay như thế nào nếu đem so sánh với các đô thị khác trong khu vực và trên thế giới? Theo ông, nếu không phát triển thị trường BĐS thì chúng ta làm thế nào để cải tạo được diện mạo đô thị, làm sao tiến kịp thế giới?
 
12. Xin ông cho biết, bài học “Hãy chết đi” mà Tổng thống Ford đã áp dụng cho New York (Mỹ) có được quốc gia nào áp dụng thành công (để khắc phục và vượt qua khủng hoảng thành công, vừa đảm bảo quyền lợi toàn dân, vừa thúc đẩy xã hội phát triển) sau đó nữa không? Lý do gì mà người ta lại không đi theo con đường đó?
 
13. Ông cho rằng, thị trường BĐS Việt Nam hiện chưa thu hút nhiều nhà đầu tư ngoại và trong thời gian tới họ sẽ không đầu tư dài hạn, mua đất giải phóng mặt bằng sau đó triển khai dự án… Đây là nhận định cá nhân hay dựa vào khảo sát nào, thưa ông?
 
14. Được biết đến như một doanh nhân với 43 năm kinh nghiệm tại thị trường Mỹ và Trung Quốc, nhưng ông đã có nhiều nghiên cứu với thị trường Việt Nam hay chưa? Và kinh nghiệm thực tế của ông với thị trường BĐS Việt Nam là gì?
 
15. Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp là các hội viên trong CLB BĐS Hà Nội rất mong muốn được tổ chức một hội thảo về những vấn đề ông đã nêu ra cho thị trường BĐS Việt Nam. Ông có sẵn sàng về Việt Nam để tham dự hội thảo này với vai trò diễn giả, trả lời các câu hỏi của các doanh nghiệp và công chúng trong nước hay không?
 
Trên đây là những câu hỏi bước đầu mà các thành viên của CLB BĐS Hà Nội đặt ra với ông. Rất mong ông sớm dành thời gian phúc đáp để chúng ta có thể tiếp tục trao đổi, làm sáng tỏ vấn đề.

Học như thế nào?

 
Ngô Bảo Châu

GS Ngô Bảo Châu ký tặng sinh viên trường Đạo học
Bách khoa Hà Nội ngày 13-3. Ảnh: TTXVN.
Trong khuôn khổ Chuỗi các sự kiện Cầu nối ASEAN lần thứ tư do International Peace Foundation tổ chức, chiều 13/3 tại Hà Nội, GS Ngô Bảo Châu đã có buổi nói chuyện với sinh viên ĐH Bách khoa về chủ đề “Học như thế nào?”. Dưới đây là nội dung bài nói chuyện.
Tôi rất hay được các em học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh hỏi về “bí quyết học tập”.  Tôi thường trả lời “Không có bí quyết gì cả. Quan trọng là niềm say mê.” Trả lời như vậy là một cách né tránh. Không sai nhưng cũng không đầy đủ. Tôi bắt buộc phải trả lời như thế khi mình chưa bao giờ suy nghĩ về vấn đề này một cách thấu đáo. Nhưng không thể nào né tránh được mãi câu hỏi này. Cũng không thể nào trút hết trách nhiệm lên đầu người khác bằng cách nói: “đây là chuyện chuyên môn của những người làm công tác nghiên cứu khoa học giáo dục”. 

Điểm lại cuộc đời mình, tôi thấy cho đến thời điểm này mình không làm gì khác ngoài việc đi học, sau đó dạy học và nghiên cứu khoa học. Trong quá trình ấy, chắc tôi cũng đã từng có những suy nghĩ riêng. Chỉ có điều những suy nghĩ đó chưa bao giờ được sắp xếp lại một cách hệ thống và được diễn đạt một cách mạch lạc. Chuẩn bị cho buổi nói chuyện này là cơ hội rất tốt để tôi làm việc này, cái việc mà phải thú thật là rất vất vả nhưng hy vọng là có ích.

Tôi xin cảm ơn International Peace Foundation và trường Đại học bách khoa đã cùng tổ chức sự kiện này. Cảm ơn tất cả các quí vị, các bạn sinh viên, học sinh đã đến dự buổi nói chuyện ngày hôm nay. Sự quan tâm của quí vị là động cơ mạnh để tôi hoàn thành bài trao đổi này.

Dàn bài của tôi dựa vào ba câu hỏi. Thứ nhất: cái gì là động cơ căn bản cho việc học tập. Thứ hai: học chữ hay học làm người? Thú thực là tôi không thích câu hỏi này, vì nó rất mập mờ và đa nghĩa. Nhưng tôi sử dụng chính tính đa nghĩa của nó để triển khai thành các câu hỏi nhỏ xung quanh việchọc cái gìCâu hỏi cuối cùng làm thành nhan đề của bài nói chuyện này: học như thế nào? Tôi không có tham vọng đưa ra câu trả lời thấu đáo, đầy đủ cho cả ba câu hỏi trên, mà chỉ có ý định sắp xếp lại những suy nghĩ tản mạn của mình thành những câu trả lời không cầu toàn. Tôi hy vọng rằng vào cuối buổi nói chuyện, chúng ta sẽ còn thời gian để trao đổi thêm.

Về sự hướng thượng và hướng thiện  

 
Sách Tam Tự Kinh mà các cụ học ngày xưa bắt đầu bằng câu “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Con người được sinh ra có bản tính vốn là hiền lành. Liệu có đúng không nhỉ ? Tin tức hàng ngày dễ làm cho người ta nghi ngờ cái “tính bản thiện” của “nhân chi sơ”. Đầu tháng Một ở Ấn độ, một cô gái 23 tuổi bị sáu người đàn ông hãm hiếp đến chết trên một chiếc xe buýt. Cuối tháng Một, ở Bắc Ninh, người ta nô nức, chen lấn nhau tham gia lễ hội chém lợn. Con lợn bị nhát đao xẻ làm hai mảnh lăn quay trong vũng máu lênh láng và trong tiếng hò reo của những người trảy hội. Đây là những hiện tượng dị biệt, không tiêu biểu cho cuộc sống của người dân Ấn độ và Việt nam. Tôi nêu chúng ra như ví dụ vì chúng cùng phản ánh sự độc ác của con người một cách vô cùng rõ nét. Xét cho cùng, giết lợn cũng chỉ là việc giết động vật để ăn thịt, cái mà con người buộc phải làm để duy trì cuộc sống của chính mình. Hãm hiếp cũng nảy sinh từ một bản năng cơ bản của con người là bản năng duy trì nòi giống. Phải chăng, con người được sinh ra với hai bản năng cơ bản duy trì cuộc sống và duy trì nòi giống, cái mà ở  trong đó đã có sẵn mầm mống của cái ác, của cái ác khủng khiếp. Nếu chỉ dừng lại đây thì quả khó mà tin được vào cái “Nhân chi sơ tính bản thiện”. 

Nếu con người được sinh ra chỉ có hai bản năng nói trên thì chắc rằng hai sự việc kể trên sẽ không phải là những hiện tượng dị biệt, mà ngược lại, là phổ biến, đến mức không làm chúng ta kinh ngạc hay xúc động nữa. Có thể tôi còn là một người lạc quan, nhưng tôi tin rằng con người được sinh ra còn có một bản năng khác nữa: đó là bản năng hướng thượng, hướng thiện. Nhìn vào một đứa trẻ sơ sinh, xinh xắn như một thiên thần ta có thể nghĩ rằng đó là hiện thân của sự tốt đẹp. Nhưng cái kiểm soát mọi hành động của đứa trẻ là chỉ đơn thuần bản năng sinh tồn của nó. Tôi nghĩ rằng, trong đứa trẻ không có sẵn một tâm hồn cao thượng, nhưng đã có sẵn tiềm năng để xây dựng nên từ đó cái tâm hồn ấy. Theo tôi, nếu có “tính bản thiện” của “nhân chi sơ”, thì nó chính là cái tiềm năng ấy.

Cái tiềm năng ấy được triển khai trong học tập và là động cơ chính cho việc học tập. Có thể có người không đồng ý với quan điểm này và cho rằng học là để sau này có một cuộc sống tử tế, để sau này có một vị trí tốt trong xã hội. Tôi cho rằng cách suy nghĩ như vậy là phiến diện. Thứ nhất, để có một cuộc sống tử tế, đó cũng chính là biểu hiện của sự hướng thượng, hướng thiện – tất nhiên một khi nó đã biến thái để nhắm tới cái đích là hưởng thụ một cuộc sống an nhàn nhờ vào sức lao động của người khác, thì cái động cơ hướng thượng hướng thiện đó đã bị tha hoá nghiêm trọng. Thứ hai, tôi tin rằng đa số người ta thực ra không có khả năng phấn đấu vì một cái gì xảy ra trong một tương lai quá xa, phần lớn người ta học chỉ vì đó là cách hoàn thiện bản thân mình, tức là học với một động cơ hướng thượng thuần khiết nhất. Vì vậy, nhiều khi chính quan niệm xã hội lại làm tha hoá một động cơ mà bản chất là thuần khiết. 

Cần lưu ý là quan niệm xã hội không phải là cái duy nhất làm cho sự hướng thượng hướng thiện bị tha hoá. Tôn thờ cá nhân, có thể là lãnh tụ, danh thủ bóng đá, hay là ca sĩ Hàn quốc, là một hình thức tha hoá của sự hướng thượng. Bản năng hướng thượng, hướng thiện luôn phải vật lộn với hàng loạt bản năng xấu: tính lười biếng, tính đố kỵ, tính gian dối, tính hiếu thắng, tự phụ. Bị tha hóa, nó không còn mấy cơ hội để làm động cơ cho việc học tập.

Học chữ hay học làm người?

Gần đây, trên báo chí có khá nhiều người ở đặt ra câu hỏi “Cần học chữ hay học làm người?” Hoặc giữa hai cái, cần học cái nào trước. Câu hỏi này thực ra tối nghĩa. Học chữ, là tiếp thu kiến thức. Còn học làm người là như thế nào, hẳn có nhiều cách hiểu khác nhau. Có thể hiểu theo nghĩa hẹp: học làm người như học kỹ năng sống, học nghệ thuật sống, tóm lại là học những hành vi văn minh.  Cũng có thể hiểu học làm người theo nghĩa rộng tức là học những gì làm nên cốt cách của một con người – như vậy thì lại quá rộng, và bao hàm nốt cả học chữ rồi. Có lẽ vì ý nghĩa của câu hỏi không được phân tích rạch ròi mà nhiều cuộc thảo luận trên báo chí về đề tài có cái vẻ gì đó hơi luẩn quẩn.

Trong cái nghĩa hẹp, có thể đặt lại câu hỏi trên khác đi, và làm cho nó rõ nghĩa hơn: “Trường học phải dạy chữ hay dạy kỹ năng sống, nghệ thuật sống?” Có vẻ như càng ngày càng có nhiều người ngả về quan điểm hiện đại “Trường học phải dạy cho trẻ kỹ năng sống”.  Quan điểm cổ điển được nhà triết học Đức Hannah Arendt phát biểu rành rọt trong bài viết “Khủng hoảng trong giáo dục” như thế này: “Chức năng của nhà trường là dạy cho trẻ thế nào là thế giới, chứ không phải là rèn cho chúng nghệ thuật sống”. Tôi đồng ý với quan điểm này, và trong phần tiếp theo của bài viết quan điểm này sẽ được làm rõ hơn lên.

Ẩn trong câu nói của bà Hannah Arendt, có cả câu trả lời cho câu hỏi học làm người theo nghĩa rộng. Học làm người là học về thế giới, trong đó có thế giới tự nhiên và thế giới con người, để mỗi cá nhân nhận thức được vị trí của mình ở trong đó, nhận thức hết các tương tác giữa cá nhân mình với những người khác, để triển khai mọi tiềm năng của mình, để hoàn thiện mình và đồng thời làm cho thế giới xung quanh trở nên một nơi an toàn hơn, thân thiện hơn cho cuộc sống. 

Để trẻ có kỹ năng sống, người lớn phải là tấm gương

Tôi từng nghe người ta kể chuyện một đứa bé sơ sinh bị sói tha đi. Sau này người ta tìm lại được đứa bé. Tuy vẫn còn hình hài của một con người, tính nết của nó là tính nết của loài sói. Ở đây, chính cái “tiềm năng hướng thượng, hướng thiện” đã biến nó thành người sói. Đối với nó, cái đại diện cho sự tốt đẹp chính là mẹ sói của nó. Mẹ sói cho nó bú, tha mồi về cho nó ăn. Đứa trẻ lớn lên giữa bày sói tất trở thành một con sói, cái nó coi là tốt là cái tốt của loài sói. Kể ra nếu nó tiếp tục sống trong rừng cùng với bày sói thì như thế cũng không sao. Bi kịch đến với nó vào cái ngày mà người ta buộc nó quay lại sống với con người.

Ở Lào, ở Thái Lan có phong tục gửi trẻ nhỏ vào sống ở trong chùa một thời gian, từ ba ngày, ba tuần, ba tháng cho đến ba năm. Ở trong chùa, ngoài việc học kinh kệ, trẻ còn học yêu quí cuộc sống thanh đạm, ngăn nắp của người tu hành. Khi đi thăm Lào và Thái Lan, người ta luôn cảm thấy ngạc nhiên về sự sạch sẽ, ngăn nắp của làng quê, kể cả ở những nơi nghèo nhất. 

Tôi xin phép dẫn thêm một ví dụ cá nhân, nhỏ nhặt và tầm thường thôi. Vợ chồng tôi ít xem vô tuyến, hầu như không xem bao giờ. Có lẽ vì thế mà mấy đứa con của chúng  tôi hoàn toàn không có sở thích xem truyền hình, bố mẹ không cần cấm đoán hay hạn chế gì cả. Nếu có thời gian, chúng nó thích đọc sách hơn. Nhiều khi tôi muốn xem phim cùng với đám trẻ con, tôi lại phải mặc cả với chúng.

Những ví dụ này nhắc nhở chúng ta, những người có bổn phận làm người lớn, đừng bao giờ quên rằng dù muốn hay không muốn, chúng ta luôn là tấm gương để cho trẻ soi vào. Ngoài trách nhiệm cho trẻ một mái nhà, cung cấp thức ăn cho đủ no, quần áo cho đủ mặc, người làm cha mẹ luôn phải tâm niệm rằng mình cư xử ngày hôm nay như thế nào, ngày mai trẻ sẽ cư xử giống như thế. Đó là bài học của chuyện cái máng gỗ mà chắc các bạn đều biết cả. 

Cái tôi muốn nói là nếu người lớn biết cư xử đúng mực thì trẻ con không cần đi học những lớp kỹ năng sống nữa. Và người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục hành vi cho trẻ là cha mẹ, gia đình, chứ không phải nhà trường. Những bài lên lớp của thầy cô giáo không có cùng tác dụng nhiều lên hành vi của đứa trẻ như chính hành vi của cha mẹ nó. 

Tất nhiên tôi không muốn nói rằng trường học hoàn toàn không có chức năng giáo dục hành vi cho trẻ nhỏ. Trong tâm hồn trẻ nhỏ, thầy cô giáo có một vị trí thiêng liêng, có lẽ thiêng liêng hơn bố mẹ, vì thế nên cách ứng xử của các thầy cô trong cuộc sống nhà trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp hành vi của học sinh. Nhưng không vì thế mà cha mẹ có thể trút toàn bộ trách nhiệm giáo dục hành vi của trẻ lên vai thầy cô giáo.

Vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình thành nhân cách

Khi đứa bé mới ra đời, bản năng sinh tồn điều khiển mọi hoạt động của nó. Đối với nó, toàn bộ thế giới là bầu sữa mẹ. Khi lớn lên, nó có thêm nhận thức về thế giới xung quanh, về những con người khác. Dần dần nó hiểu rằng không chỉ có nó cần sinh tồn, mà cả những người khác cũng cần sinh tồn như nó. Điều này thoạt nghe thật hiển nhiên, nhưng đó là một bước chuyển hoá vĩ đại của tư duy, đứa trẻ đã chấp nhận sự tồn tại của khách thể, của người khác, như một lực lượng đối lập với bản thân nó. 

Chấp nhận sự tồn tại của khách thể là điều kiện để phân biệt giữa cái thiện và cái ác. Cái thiện là sung sướng trong sự hạnh phúc của người khác, đau khổ trong sự bất hạnh của người khác, còn ngược lại cái ác là sung sướng trong sự bất hạnh của người khác, đau khổ với sự hạnh phúc của người khác. Như vậy, khi đứa trẻ còn chưa nhận thức về người khác, theo nghĩa ở trên, các khái niệm thiện và ác chưa thể áp dụng vào nó. Thêm nữa, khái niệm “người khác” không nhất thiết phải là người. Đó có thể là con ong, cái kiến. Đó cũng có thể là con lợn ở Bắc Ninh. Cái cảm giác phấn khích, hân hoan của con người trong cái chết tức tưởi của con lợn biểu đạt cái ác ở trạng thái thuần tuý nhất của nó.

Việc học, theo Hannah Arendt, đó là cố gắng để hiểu thế giới xung quang, trong đó có thế giới tự nhiên và thế giới con người. Nó bắt người ta phải nhận thức về sự tồn tại của người khác, cái là điều kiện để phân biệt giữa thiện và ác. Chỉ biết phân biệt thiện và ác thôi không đủ. Có một câu ngạn ngữ nói rằng “Đường đến địa ngục lát bằng thiện tâm”.  Biết phân biệt rành rọt giữa thiện và ác là cần thiết nhưng sẽ thật thiếu sót, thậm chí nguy hiểm, nếu coi việc hình thành nhân cách chỉ đơn giản là phân biệt giữa thiện và ác. Trong phần lớn các trường hợp, vấn đề không phải là ở chỗ phân biện giữa thiện và ác.

Để nhận thức được vị trí của mình trong thế giới, mỗi người phải tự đặt ra cho mình những câu hỏi căn bản nhất về thân phận con người, phải tự tìm ra câu trả lời của mình cho những câu hỏi đó, hoặc ít ra cũng biết về những câu trả lời mà tiền bối đã từng đưa ra. Việc phân biệt giữa cái thiện và cái ác là một trong những câu hỏi như thế, nhưng nó không phải là câu hỏi duy nhất và có lẽ cũng không phải là câu hỏi quan trọng nhất.

Có những câu hỏi thoạt nghe thì có vẻ ngây thơ ví dụ “Những cái gì là nhu cầu căn bản của con người? Tự do và công bằng có phải là như cầu căn bản của con người hay không”. Con người có cả nhu cầu sống trong cộng đồng, trong xã hội, vì mỗi người không thể làm ra được hết tất cả những gì mình cần. Nếu tự do và công bằng cũng là nhu cầu căn bản thì xã hội phải được thiết kế thế nào để cho tự do của mỗi người và sự công bằng giữa người này và người khác được bảo đảm? Triển khai câu hỏi đến đây thì ta thấy câu hỏi này phức tạp hơn nhiều so với câu hỏi phân biệt giữa cái thiện và cái ác, và có lẽ cũng quan trọng hơn.  

Trả lời cho câu hỏi về vai trò của giáo dục nhân văn nói chung vượt ra ngoài khuôn khổ của bài nói chuyện này và khả năng của tôi.  Trong phần tiếp theo, tôi muốn thu hẹp câu hỏi lại và trao đổi kỹ hơn về vai trò của giáo dục nhân văn trong sự hình thành nhân cách.

Cơ chế căn bản cho việc hình thành nhân cách là chiêm nghiệm về một sự việc cụ thể đã xảy ra trong một hoàn cảnh cụ thể, ngẫm xem người ta đã quyết định như thế nào, đã làm gì, và hậu quả, ảnh hưởng của việc đó lên cuộc sống của người khác và của chính người đó như thế nào. Có thể thấy rằng con người chiêm nghiệm bằng xúc cảm nhiều hơn là bằng tư duy. Người ta chiêm nghiệm sâu sắc nhất về những gì xảy ra với chính mình, hoặc là xảy ra với người thân của mình, vì những trải nghiệm đó để lại những xúc cảm mạnh nhất.  Nhưng nói chung, trải nghiệm của một người trẻ, kể cả những trải nghiệm được gia đình chia sẻ, không đủ phong phú để người đó hình thành một nhân cách vững vàng. Vốn trải nghiệm của anh ta sẽ giàu có hơn nhiều, nếu anh ta biết đặt mình vào trong lịch sử, nơi những câu chuyện của quá khứ được ghi lại một cách trung thực, hoặc là trong văn học, nơi có những câu chuyện lớn, tuy có thể là được hư cấu, nhưng luôn xuất phát từ sự trải nghiệm chân thực của nhà văn. 

Trong một bài viết trên blog cá nhân, đặt tên là Giữ ký ức, tôi có kể câu chuyện về học sinh phổ thông ở Đức học về tội ác của chế độ quốc xã lên người Do thái như thế nào. Học sinh Đức học ở trong sách vở, đọc nhật ký của cô bé Anne Frank viết khi trong thời gian hai năm trốn trong góc tủ để rồi cuối cùng cũng bị bắt rồi bị giết. Họ đi tham quan trại tập trung Buchenwald. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn cả là học sinh Đức còn phải tự đi điều tra xem xung quanh nơi mình ở, trước đây đã từng có người Do thái nào sống, họ tên là gì, họ đã bị bắt trong hoàn cảnh nào, đã bị giết chết như thế nào. Làm như thế để cho những trải nghiệm trở nên gần gũi nhất. Một vài tháng sau khi viết bài này, tôi có nói về chuyện với một nhiếp ảnh gia người Đức, ông ấy nói người Đức phải làm như thế vì nếu không họ sẽ lại phạm lại đúng những sai lầm khủng khiếp nhất trong quá khứ. Giáo sư Hà Huy Khoái cũng bình luận như thế này: “Người Đức khôn thật, họ cho học sinh học thuộc bài lịch sử! Dân tộc nào không làm điều đó, chắc chắn phải học đi học lại nhiều lần. Chưa thuộc bài nào, lịch sử sẽ bắt học lại bài đó. Mà mỗi lần học lại, thi lại đều phải trả giá đắt hơn trước. Giá ở đây có thể là máu, không chỉ là tiền như sinh viên thi lại!”. 

Tôi nghĩ về câu chuyện này từ một khía cạnh khác. Trải nghiệm chân thực về những sự thật dù đau đớn đến mấy cũng làm cho cốt cách con người trở nên mạnh mẽ, trái với những sự dối trá, có thể ngọt lịm, nhưng luôn làm tha hoá tâm hồn con người. Chức năng của giáo dục nhân văn không phải là ngợi ca cái thiện, phê bình cái ác mà là giúp con người tìm đến sự thực và để cảnh giác với sự dối trá của người khác và của chính mình. Cảnh giác với bản năng lười nhác, ích kỷ và hèn nhát, những cái rất giỏi ngụy trang trong tấm áo thiện tâm để dắt tay con người đi về địa ngục, cái không phải là gì khác mà chính là sự tha hóa hoàn toàn của tâm hồn con người. Giáo dục nhân văn nghiêm túc rèn cho chúng ta thái độ nỗ lực không mệt mỏi trong cố gắng đi tìm sự thật cùng với khả năng chiêm nghiệm bằng tư duy vì nếu chỉ chiêm nghiệm bằng xúc cảm, con người rất dễ bị đánh lừa.

Tôi đã nhắc đến chuyện bản năng hướng thượng hướng thiện của con người rất dễ bị tha hoá để trở thành hiện tượng sùng bái cá nhân, có thể xuất hiện dưới dạng là sùng bái lãnh tụ hoặc ca sĩ Hàn quốc. Vai trò của giáo dục nhân văn là dắt tay con người đi theo “tấm biển chỉ đường của trí tuệ” để đi về với cái chân thiện, chân mỹ.
Ngôn ngữ và thái độ khoa học

Nếu bản năng hướng thượng, hướng thiện là động cơ của học tập, nó không phải là công cụ. Con người biểu đạt sự hiểu biết về thế giới khách quan bằng lời. Con người thụ hưởng vốn hiểu biết mà nhân loại tích tụ được thông qua ngôn ngữ. Có hai thái độ ứng xử với ngôn ngữ đối lập nhau, dẫn đến hai phương pháp tư duy đối lập nhau: một bên là thái độ tôn giáo, coi ngôn từ như đối tượng để tôn thờ, một bên là thái độ khoa học, coi ngôn từ như một công cụ để định hình tư tưởng.

Định nghĩa chữ Đạo trong Đạo Đức Kinh là điển hình của thái độ tôn giáo đối với ngôn từ. Đạo được mô  tả như thế này, như thế kia, Đạo không phải là thế này, không phải là thế kia, nhưng không một lần Đạo được định nghĩa là cái gì. Đạo là một từ đại diện cho một khái niệm linh thiêng không định nghĩa được, người ta chỉ có thể biết thuộc tính của nó là như thế này, như thế kia, cùng lắm là biết nó không phải là cái gì, tức là hạn chế khái niệm bằng phủ định, chứ không thể nói nó là cái gì, tức là định nghĩa khái niệm bằng khẳng định.  Tính linh thiêng của chữ Đạo nằm chính ở chỗ ta không thể định hình được nó.

Tôi dẫn ví dụ Đạo Đức Kinh không với ý muốn đánh giá thấp giá trị triết học của tác phẩm này. Tôi chỉ muốn chỉ ra sự đối lập với giữa thái độ tôn giáo của nó đối với ngôn ngữ và thái độ khoa học. Thái độ tôn giáo với ngôn ngữ đưa đến những luận điểm bao quát, trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống, con người cũng có thể vận dụng chúng để diễn giải những gì xảy ra với mình, và tự an ủi mình. Mà trên đời này, ai là người không cần được an ủi.

Đóng góp lớn nhất của văn hoá Hy lạp cổ đại cho tư duy loài người có lẽ là sự phát minh ra thái độ khoa học với ngôn ngữ mà điển hình là sách Cơ sở của Euclid. Để nói về hình tròn, người ta không nói nó là cái gì đó giống mặt trời, hay mặt trăng vào thời kỳ trăng tròn, mà người ta định nghĩa đường tròn là tập hợp các điểm có một khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước, gọi là tâm của đường tròn. Cái đáng lưu ý nhất là khái niệm luôn được xây dựng trên cơ sở khẳng định: nó là cái gì, chứ không phải trên cơ sở phủ định: nó không phải là cái gì. 

Cũng cần lưu ý là ở đây đường tròn không được gán cho bất kỳ một thuộc tính thiêng liêng nào cả, nó chỉ là cái tên đưa ra để định hình khái niệm tập hợp các điểm có khoảng cách cho trước đến một điểm cho trước. Thậm chí trong thực tế, không có cái gì chính xác là hình tròn cả, chỉ có những hình tròn gần đúng mà thôi. Các định nghĩa của Euclid chỉ có giá trị giới hạn trong phạm vi của hình học. Theo một nghĩa nào đó, hình học là một sản phẩm thuần tuý của trí tuệ, là một trò chơi của tư duy. Giá trị lớn nhất của trò chơi này nằm ở ngay trong sự hạn chế của nó. Vì luật chơi bao gồm một số tiên đề, và một số phép suy luận được quy định trước, một phát biểu hình học chỉ có thể hoặc là đúng, hoặc là sai, một chứng minh chỉ có thể là đầy đủ chặt chẽ hoặc là thiếu sót ngộ nhận.  Đây là cuộc chơi mà tư duy logic của con người được tha hồ thi thố. Cho đến bây giờ nó vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó. Để cho trẻ học được phương pháp lập luận chặt chẽ, không có gì tốt hơn là học hình học Euclid.

Ưu điểm của trò chơi tư duy mà trong các luật chơi được cố định trước là trong phạm vi của cuộc chơi này, mọi cái đúng cái sai đều rõ ràng. Ưu điểm quan trọng khác là con người có thể rút ra kết luận rõ ràng chi tiết từ hệ thống tiên đề và khái niệm, để rồi đem nó ra kiểm chứng, đối chiếu với quan sát thực tế. 

Ở điểm này, thiên hướng của khoa học khiêm tốn hơn nhiều so với thiên hướng của tôn giáo. Những luận điểm của tôn giáo thường có tính khái quát cao, nhưng không có tính chi tiết để có thể kiểm chứng đối chiếu được qua các quan sát thực tế. Trong mọi trường hợp tôn giáo yêu cầu người ta phải tin và phải chấp hành. Ngược lại, lý thuyết khoa học đưa ra những luận điểm đủ cụ thể để có thể kiểm chứng với thực tế và dành cho thực tế quyền phán xét cuối cùng. Sự khiêm tốn, luôn đặt mình vào vị trí để cho thực tế phán xét, hoặc khẳng định, hoặc phủ nhận, theo Karl Popper chính là thuộc tính đặc trưng của khoa học, đối lập với tín điều.

Sự khiêm tốn này cũng chính là cái làm nên sức sống của khoa học. Tôn giáo sẽ chết khi con người không còn đặt lòng tin vào tín điều nữa. Còn trong bản chất của mình, luận điểm khoa học chấp nhận sự phủ định, nó như chỉ chờ được thực tế phủ định để hồi sinh, lột xác thành một lý thuyết khoa học mới, phức tạp hơn, có phạm vi ứng dụng rộng hơn lý thuyết cũ.  

Trong bản chất, mọi lý thuyết khoa học chỉ mô tả được một phạm vi nào đó của thế giới, lý thuyết càng thô sơ thì phạm vi áp dụng của nó càng hẹp. Đi ra ngoài phạm vi đó là bắt đầu một cuộc chơi mới, con người lại phải sáng tạo một hệ thống ngôn ngữ, khái niệm mới, tìm ra một luật chơi mới.  Nhưng không phải vì thế mà lý thuyết cũ nhất thiết phải bị thủ tiêu khi một lý thuyết mới ra đời. Trong phạm vi cuộc sống hàng ngày, khi các vật thể chuyện động chậm hơn nhiều so với ánh sáng, cơ học Newton vẫn đúng.

Người đi tìm hiểu thế giới gần như bắt buộc phải đi lại gần như toàn bộ hành trình tìm hiểu thế giới của loài người. Đây là cái khó khăn rất lớn. Đã có một số quan điểm sai lầm trong giáo dục muốn bỏ qua những lý thuyết khoa học trước đây để đưa học sinh đến với những lý thuyết tiên tiến nhất. Ở phương tây những vào những năm 70 đã có trào lưu xây dựng lại toàn bộ giáo trình toán học dựa theo cách trình bày toán học hiện đại của nhóm Bourbaki. Kết quả của thí nghiệm đại trà này không tốt. Cảm nhận chung là trình độ toán học của học sinh tốt nghiệp phổ thông kém đi nhiều.

Gần đây, con lắc cực đoan có vẻ như bị văng theo hướng ngược lại. Người ta muốn lược đi khỏi chương trình tất cả những gì được coi là không cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Tôi vô cùng ngạc nhiên bởi ý kiến của một vị Giáo sư cho rằng học sinh không cần học vi phân, tích phân vì hàng ngày có ai cần dùng đến vi phân, tích phân đâu. Nhưng chính là nhờ vào thiên tài của Newton và Leibnitz, các hiện tượng tự nhiên được mô tả một cách tường minh dưới dạng phương trình vi phân. Loại bỏ đi đạo hàm tích phân có khác gì tự nguyện quay lại với tư duy mơ hồ của siêu hình trung cổ.

Vấn đề không phải đem những kiến thức khoa học tiên tiến nhất đến cho học sinh, vì có muốn cũng không làm được. Vấn đề cũng không phải là tập trung rèn luyện cho học sinh kỹ năng tính toán để phục vụ cho những nhu cầu hàng ngày. Cái cần làm trang bị cho học sinh phương pháp tư duy khoa học: định hình rõ nét khái niệm, liên hệ những khái niệm đó với thế giới khách quan, biết lập luận, biết tính toán để đưa ra những luận điểm cụ thể, kiểm chứng những luận điểm đó với thế giới khách quan.

Còn một thuộc tính khác của một khoa học có sức sống là khả năng đem đến sự bất ngờ. Hình học Euclid không còn khả năng đưa ra những khẳng định bất ngờ nào nữa và theo nghĩa này, nó là một môn khoa học chết. Nó chỉ còn là một trò chơi trí tuệ để học sinh rèn luyện khả năng tư duy logic. Nhận định của Einstein rằng tia sáng bị uốn cong khi đến gần các vật thể có khối lượng lớn nhờ vào những tính toán trong lý thuyết tương đối là một bất ngờ khi trong hình dung của chúng ta, đường thẳng là đường truyền của ánh sáng. Sức sống của một bộ môn khoa học thể hiện ở chỗ từ một hệ thống khái niệm, tiên đề chấp nhận được, bằng tính toán và lập luận, người ta có thể đưa ra những giải thích chưa biết cho những hiện tượng đã biết, hoặc là tiên đoán về những hiện tượng chưa được biết đến.

Khi khoa học “nhận nhiệm vụ” diễn giải, chứng minh cho một luận điểm cho trước, để phục vụ một mục đích chính trị hoặc tôn giáo, bất kể mục đích đó tốt hay xấu, về mặt thực chất khoa học đã mất đi cái làm nên sức sống của nó.  Vấn đề “nhận nhiệm vụ” ảnh hưởng nhiều đến khoa học xã hội hơn là khoa học tự nhiên. Như một số người đã nhận xét, ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, các ngành khoa học tự nhiên có thể rất phát triển trong khi các ngành khoa học xã hội để lại rất ít dấu ấn vào văn minh nhân loại. GS Hà Huy Khoái có lần phát biểu nửa đùa nửa thật “Thực chất, ở Việt Nam chưa có khoa học xã hội”. Phát biểu của ông đã gây ra những phản ứng khá dữ dội. Nói một cách khách quan hơn, nó có đấy, nhưng nó yếm khí và thiếu sức sống.

Học như thế nào?

Ngày xưa để học được chữ thánh hiền, cái quan trọng nhất là cần có chí. Cái chí để đi bắt đom đóm bỏ vào lọ làm đèn mà đọc sách thâu đêm. Trong công việc học tập bây giờ, trong việc tiếp thu kiến thức khoa học của nhân loại tưởng như vô hạn, chỉ có chí thôi chắc là không đủ.

Như tôi vừa trình bày ở trên, khoa học không bị cái bệnh tự phụ coi những luận điểm của mình đúng một cách tuyệt đối, đúng một cách phổ quát. Mỗi lý thuyết khoa học được khai triển bằng tính toán, bằng lập luận từ một số nhỏ khái niệm, một số tiên đề cơ sở. Mỗi lý thuyết có logic nội tại của nó, nó không tự mâu thuẫn, nhưng những kết luận mà người ta rút ra từ nó chỉ khớp với thực tế khách quan trong một phạm vi nào đó. Theo một nghĩa nào đó, mỗi lý thuyết là một trò chơi trí tuệ, với luật chơi được xác định rõ ràng mà trong đó người chơi có thể triển khai khả năng tư duy của mình để đi đến những kết quả nhiều khi nằm ngoài sự mong đợi ban đầu.

Rất ít khi người ta chơi trò gì một mình.  Để cho cuộc chơi thực sự cuốn hút, để cho người chơi có thể thực sự triển khai mọi tiềm năng tư duy của mình để đi đến những kết quả bất ngờ, đi đến sáng tạo, cuộc chơi phải có bạn chơi và phải có trọng tài. Để minh hoạ quan điểm này, tôi xin đưa ra một gợi ý nhỏ, nhưng rất nghiêm túc.

Nhờ vào internet, hiện tại người ta có thể tìm được miễn phí rất nhiều tài liệu học tập miễn phí ở trên mạng. Một số trường đại học có tên tuổi như MIT, Stanford còn tổ chức công bố miễn phí hầu hết các tư liệu học tập. Thay bằng việc phải bỏ ra 50 ngàn đô-la một năm để đến đó học, mà không phải cứ có 50 ngàn đô-la là đã được nhận vào học, bạn có thể truy cập miễn phí các tư liệu học tập, theo dõi các bài giảng video. Vậy có đúng là bạn cứ ngồi ở Hà nội, hay Sài gòn, là cũng có thể học như sinh viên ở MIT hay ở Stanford hay không.

Tôi nghĩ rằng trừ khi bạn có một ý chí sắt đá, dù có được cung cấp tất cả mọi tài liệu trên đời, dù dược theo dõi miễn phí các bài giảng, ở nhà một mình bạn vẫn không thể học được. Bởi vì ngồi theo dõi bài giảng trên mạng một mình không phải là một cuộc chơi thú vị: không có địch thủ, không có đồng đội, không có lộ trình, không thấy mục tiêu, không thấy giải thưởng. Đó là những thứ không liên quan trực tiếp đến nội dung khoa học của bài giảng nhưng đó là cái mà người đi học cần để phấn đấu liên tục. Học một mình, bạn có thể tập trung cao độ trong một hai ngày cho đến một tuần. Nhưng bạn cần có tập thể, có lớp học, có thầy giáo để duy trì nỗ lực học tập.

Gợi ý của tôi là tại sao các bạn không tự tổ chức cùng học theo giáo trình được cung cấp trên mạng. Tại sao không thể dùng trực tiếp bài giảng, tư liệu học tập cung cấp miễn phí trên mạng trong các lớp học chính khoá. Các thầy không nhất thiết phải giảng cả buổi nữa, mà có thể cho sinh viên xem bài giảng trên mạng, có thể làm trước phụ đề tiếng việt, sau đó dành thời gian để giải thích thêm, trả lời câu hỏi của sinh viên, và hướng dẫn làm bài tập. Và cuối cùng là tổ chức thi cử nghiêm túc. Tất nhiên gợi ý thì dễ, mà làm thì khó, nhưng tôi không tin là việc này không thể làm được. Kinh phí để tổ chức lớp học như thế có lẽ là không nhiều lắm, nếu so sánh với học phí 50 ngàn đô la một năm ở MIT hay Stanford.

Với gợi ý có tính suy tưởng này, tôi hy vọng làm nổi lên được sự quan trọng của việc tổ chức học tập. Học tập là một hoạt động tập thể và có tổ chức. Như đã nêu ở trên, thiếu một tập thể có tổ chức, con người nói chung không có khả năng duy trì nỗ lực của mình trong một thời gian dài. Thiếu tranh biện con người nhanh chóng lạc vào con đường chủ quan, con đường luôn dẫn đến cái đích là sự bế tắc. Bản tính con người là hiếu thắng, cái cần thiết để tạo ra sự sôi động trong tranh luận, những cũng là cái làm hỏng cuộc tranh luận, biến nó thành chiến trường để người này đè bẹp người kia. Vì vậy trong mọi cuộc chơi tập thể cần có một luật chơi lành mạnh để cho sự cạnh tranh chỉ tạo ra nỗ lực để mỗi người vượt lên chính mình, chứ không phải là cái cớ để thỏa mãn bản năng hiếu thắng. Và cuộc chơi cần một người trọng tài, nắm vững luật lệ và có thẩm quyền điều khiển cuộc chơi. Ngoài ra, chính những ràng buộc của luật chơi bắt người chơi phải vươn tới sự sáng tạo thực sự.

Tôi để ý thấy người ta phá bỏ luật chơi dễ dàng quá. Tôi xin dẫn một ví dụ nhỏ là việc viết thư giới thiệu. Viết thư giới thiệu là một công việc khá vất vả mà lại không thể mong đợi phần thưởng gì khác ngoài cảm giác hoàn thành bổn phận. Để giới thiệu cho một đồng nghiệp vào một vị trí phó giáo sư, hay giáo sư, thường thì người giới thiệu phải tìm hiểu kỹ công trình của người mình giới thiệu để chỉ ra chỗ nào hay, chỗ nào đặc sắc, chỗ nào thì cũng chỉ bình thường, và nêu ra ý nghĩa chung của công trình. Không viết được đầy đủ nội dung như vậy, thì lá thư giới thiệu không có mấy trọng lượng, mà người viết thư giới thiệu lại có thể bị đánh giá, hoặc là về sự nghiêm túc, hoặc là về trình độ. Viết thư là một việc rất vất vả, mà không có ai khen ông này ông kia viết thư giới thiệu rất hay, vì trên nguyên tắc thư giới thiệu được giữ bí mật. Tóm lại, viết thư giới thiệu là một việc vất vả, không có bổng lộc, nhưng lại cần phải làm để ủng hộ một người đồng nghiệp xứng đáng, hoặc chỉ đơn thuần là để thực hiện bổn phận của mình. Viết thư giới thiệu cho sinh viên cũng mất công, nhưng không vất vả như viết thư giới thiệu cho đồng nghiệp.

Có một lần, một sinh viên mà tôi đã từng dạy ở Hà nội nhờ tôi viết thư giới thiệu.  Khi tôi còn đang do dự vì tôi đánh giá bạn ấy không thực sự xuất sắc, thì anh ta gửi cho tôi một bức thư giới thiệu soạn sẵn để tôi chỉ việc ký vào đó. Khi tôi tỏ ra vô cùng ngạc nhiên về cách làm này, thì bạn ấy trình bày là các thầy giáo khác yêu cầu bạn ấy làm như thế. Một số người có thể coi đây là việc nhỏ, nhưng tôi nghĩ chính từ những chuyện nhỏ như thế sẽ làm tha hoá cả hệ thống.

Khi chuẩn bị bài nói chuyện này, ý định của tôi là chia sẻ những suy nghĩ tản mạn của mình về việc học tập, chứ không định phê bình ai cả, càng không có ý định phê bình nền giáo dục ở nước ta. Đã có nhiều người chỉ ra rất nhiều bất cập, tôi không thấy cần thiết phải hoà thêm tiếng nói của mình vào đó. Nhưng nếu chỉ nêu ra một vấn đề, vấn đề lớn nhất, thì theo tôi đó là mức độ tha hóa của hệ thống.

Xin quay lại sự kiện Đồi ngô mà các bạn đều đã biết cả. Đây là một sự kiện vô cùng đặc biệt, vì chuyện thí sinh quay phim giám thị vi phạm qui chế thi là điều chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Đây là một câu chuyện rất buồn, nó phải là tiếng chuông cảnh tình về mức độ tha hoá của hệ thống. Hãy khoan quy trách nhiệm cho một cơ quan, một cá nhân nào mà hãy bình tâm suy nghĩ. Để cho một việc như vậy xảy ra, phải có nhiều người từ trung ương đến địa phương, ở trong và ngoài ngành giáo dục, đã không tôn trọng luật chơi. Kết quả là kỳ thi tốt nghiệp, cái đáng ra phải là một thủ tục mang tính nghiêm cẩn, phải là một cái mốc thiêng liêng cho cả quá trình lao động học tập của học sinh, lại trở thành một trò đùa, một trò đùa làm chúng ta muốn khóc.

Nước Mỹ có thể tự hào về những trường đại học của mình. Các đại học ở Mỹ thường là tương đối trẻ, trường đại học Chicago nơi tôi làm việc cũng mới khoảng 100 tuổi, đồng niên với Đại học quốc gia Hà nội. Có lẽ cũng phải trả lời câu hỏi, cái gì là “bí quyết thành công” của họ. Vào thời điểm hiện tại thì ta có thể nói rằng lý do thành công của họ là họ rất giàu, có nhiều giáo sư giỏi, có cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại. Nhưng nói như thế là nhầm lẫn giữa kết quả và nguyên nhân. Ban đầu, họ không giàu, mà cũng không có nhiều người thực sự xuất sắc nếu so với cái trường đại học ở châu Âu vào cùng thời. Tuy không có một câu trả lời duy nhất, nhưng một nguyên nhân chắc chắn được nhắc đến là tinh thần fair-play, mọi hành vi ăn gian đều bị trừng trị một cách vô cùng nghiêm khắc. 

Tôi cho rằng sự trung thực là một hành vi khó mà học được từ trong sách vở. Để trẻ học được tính trung thực, trước hết người lớn cũng phải học tính trung thực, để tự biết mà làm gương. 

Tôi đã nói nhiều về sự cần thiết của việc tổ chức học tập, tính kỷ luật và tính trung thực. Nhưng bạn có thể thắc mắc rằng tại sao tôi nói về trường học mà cứ như là nói về doanh trại quân đội.

Tính kỷ luật và trung thực tất nhiên là không đủ. Cái còn thiếu chính là “niềm say mê” mà tôi nhắc đến lúc bắt đầu.  Say mê đi tìm cái mới, cái chưa biết, tìm lời giải thích cho những gì còn chưa hiểu.  Niềm say mê đi từ đâu đến? Thú thực là tôi không biết chắc chắn, và vì thế mà tôi giả sử rằng con người sinh ra với một bản năng hướng thượng, nói cách khác là đã có sẵn trong mình mầm mống của niềm ham mê. Tôi nghĩ rằng thực ra câu hỏi niềm ham mê sinh ra từ đâu không quan trọng bằng làm thế nào để gìn giữ niềm ham mê, và không để cho nó bị tha hoá. Niềm đam mê, tính hướng thượng hướng thiện là động cơ cho việc học tập, và chính việc học tập đích thực là cái nuôi dưỡng sự hướng thượng hướng thiện bởi những giá trị nhân văn chân thiện, chân mỹ, bởi tình yêu sự thật, và bởi niềm hạnh phúc của sự khám phá,  để vượt qua biên giới giữa những gì đã biết và những gì chưa biết.

Một người bạn tôi có góp ý với tôi rằng bên cạnh niềm ham mê, đừng quên bổ sung sự quả cảm. Sự quả cảm là cái bạn cần để không để lười biếng, hèn nhát dụ dỗ mà quay lưng lại với sự thật. Sự quả cảm cũng là cái bạn rất cần khi đi tìm cái mới. Bạn có tập thể, có đồng đội để cùng học tập, tiến bộ. Nhưng dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy rằng khi đã vượt qua biên giới của những gì đã biết để thực sự đuổi theo cái chưa biết, bạn rất cần tính quả cảm vì đi tìm cái mới thường là một hành trình cô đơn, và nó có thể kéo dài nhiều năm.

Lời cảm ơn 

Xin chân thành cảm ơn các ông Bùi Đức Lại, Nguyễn Xuân Long, Hoàng Hồng Minh và Nguyễn Phương Văn về những góp ý quí báu.

Tài liệu tham khảo

1. Hannah Arendt: La crise de l’éducation:    http://www.meirieu.com/COURSPHILO/textephilo4.pdf

2. Ngô Bảo Châu: Giữ ký ức: thichhoctoan.net/2013/01/16/giu-ky-uc/

3. Hà Huy Khoái: Muốn có ứng dụng, phải có lý thuyết: vnn.vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/04/562806/

Về quyền sở hữu đất đai trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

 – Nguyễn Thị Cúc

POSTED BY  ⋅ MARCH 10, 2013
FILED UNDER  
 (Đây là vấn đề mà trong bản giải trình của “Dự thảo hiến pháp tham khảo” mà mình biên tập đã nói: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân” là khái niệm chung, bao gồm: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các tổ chức và sở hữu tư nhân. Khi nào, các vùng đất như rừng, hải đảo, đất trong lòng đất và các tài sản khác… không thuộc sở hữu nhà nước, các tổ chức và cá nhân thì người ta coi đó thuộc sở hữu chung “sở hữu toàn dân” và sẽ do nhà nước đứng ra làm đại diện chủ sở hữu. Người ta nhầm lẫn khái niệm “sở hữu toàn dân” và “sở hữu nhà nước”!)
 
14:25′ 6/3/2013
TCCSĐT – Trong quá trình đưa Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ra thảo luận và lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, vấn đề sở hữu đất đai là một nội dung quan trọng, được người dân đặc biệt quan tâm.

Về khái niệm sở hữu

Sở hữu là một phạm trù kinh tế – chính trị cơ bản, chỉ mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải. Nó đồng thời là một hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải và được luật hóa thành quyền sở hữu, được thực hiện theo một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm ba quyền sau: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Ba quyền này có thể do chủ sở hữu thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện. Người ủy quyền và người được ủy quyền phải thống nhất ý chí với nhau, nếu vượt quyền thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận.

Trong quá trình thảo luận toàn dân đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vấn đề sở hữu đất đai là một nội dung quan trọng, được người dân quan tâm. Bởi vì, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng của người nông dân, là đầu vào của quá trình sản xuất và dịch vụ. Chế định đất đai luôn được ghi nhận trong các bản hiến pháp của nước ta. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lịch sử, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định chủ thể, khách thể, nội dung của quyền sở hữu đất đai khác nhau.

Quyền sở hữu đất đai qua các bản hiến pháp Việt Nam

Điều 12 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Tài sản được quan niệm gồm động sản và bất động sản. Như vậy, quyền tư hữu về tài sản như một quyền tự nhiên của con người, được Nhà nước công nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp.

Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 quy định: “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất của nông dân”. Và chỉ có “đất hoang” mới coi là sở hữu toàn dân (Điều 14 Hiến pháp năm 1959).

Sau khi thống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1980 và tiếp đó Hiến pháp năm 1992 công bố tất cả “đất đai là sở hữu toàn dân” ( Điều 17 Hiến pháp năm 1992).

Nếu như Hiến pháp năm 1959 ghi nhận sở hữu riêng là quyền cơ bản của công dân thì ở Hiến pháp năm 1980, điều này không còn được thừa nhận. Nhà nước không công nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế tương ứng, mà đặt trọng tâm vấn đề sở hữu toàn dân, đặc biệt là đối với các tư liệu sản xuất, các nguồn tài nguyên chính yếu của quốc gia; chính thức mở đầu cho việc xác lập đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Theo đó, việc cụ thể hóa quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai được thể hiện trong Luật Đất đai năm 1987, đã đạt được nhiều tiến bộ, mang tính đột phá. Nhờ đó, hiệu quả sử dụng đất ngày càng được nâng cao. Tuy Hiến pháp không quy định cá nhân, hộ gia đình có quyền sở hữu về đất đai nhưng có quyền sử dụng, khai thác, chuyển nhượng tài sản trên đất của mình. Nếu trên đất không có tài sản thì không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kể cả việc thừa kế quyền sử dụng đất. Trên thực tế, thời kỳ này, cùng với chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, đưa cá nhân, hộ gia đình làm ăn riêng lẻ vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã, Nhà nước giao đất cho hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất, nên các giao dịch dân sự về đất đai hầu như bị coi ngoài khuôn khổ pháp luật. Tài sản mà các hộ gia đình có quyền sở hữu cũng chủ yếu là tư liệu tiêu dùng, các giao dịch dân sự trong thời kỳ này chủ yếu là giải quyết nhu cầu thiết yếu hằng ngày của cá nhân và gia đình của họ.

Hiến pháp năm 1992 là bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hiến pháp năm 1992 quy định: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát huy mọi tiềm năng của mình để phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau.

Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở pháp lý thu hút sự tham gia của người dân vào các hoạt động kinh tế, khuyến khích công dân làm giàu chính đáng bằng khả năng của mỗi người trên cơ sở định hướng của Nhà nước.

Hiến pháp năm 1992 đã khôi phục lại phạm vi và đối tượng quyền sở hữu của công dân, phù hợp với chính sách kinh tế mới và quy định về quyền tự do kinh doanh của công dân: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và 18 của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Như vậy, qua các quy định trên, phạm vi quyền sở hữu của công dân ngày càng được mở rộng, nhất là quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất nói chung và quyền sử dụng đất đai nói riêng, điều mà Hiến pháp năm 1980 đã không thừa nhận. Nhà nước cho phép cá nhân, hộ gia đình thực hiện các quyền khai thác, sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê, đổi, thừa kế quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được Nhà nước thừa nhận là hàng hoá có giá trị kinh tế đặc biệt quan trọng của cá nhân, hộ gia đình và các chủ thể khác. Khi không còn nhu cầu sử dụng đất thì cá nhân, hộ gia đình có quyền chuyển nhượng, cho, tặng, để lại thừa kế. Vì vậy, người dân sẽ an tâm lao động sản xuất trên đất được Nhà nước giao hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng. Ngoài quyền sử dụng đất, Hiến pháp còn chỉ rõ: công dân có quyền tham gia vào nhiều loại hình kinh doanh khác nhau, ngoài tư liệu sản xuất thì việc đóng góp vốn dưới hình thức như tiền, vàng, mua cổ phiếu, trái phiếu… cũng nằm trong phạm vi quyền sở hữu của công dân.

Hiến pháp năm 1992 đã công nhận quyền sở hữu riêng của công dân. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị, được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, như: công dân có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải trả lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại…
Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Trên cơ sở đó, các hình thức sở hữu hỗn hợp, đan xen cũng được hình thành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Đặc biệt, chế định sở hữu toàn dân đối với đất đai theo quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được thể chế bằng Luật Đất đai năm 2003.

Qua hai mươi năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, thì chế định sở hữu toàn dân nói chung và sở hữu toàn dân về đất đai đã bộc lộ một số hạn chế, và nếu Hiến pháp lần này không thay đổi thì chính chế định “sở hữu toàn dân” sẽ không còn là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Bất cập của chế định pháp lý “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”

Khái niệm sở hữu toàn dân được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 2003, trong khi đó Luật Dân sự năm 2005 lại quy định, đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Hai khái niệm này là khác nhau về chủ thể, nhưng trên thực tế nhiều người lại hiểu là một. Về mặt pháp lý, khái niệm sở hữu toàn dân là không rõ ràng về mặt chủ thể, khách thể và nội dung của quyền sở hữu. Khái niệm sở hữu toàn dân không phải là khái niệm pháp lý, cũng không phải là khái niệm kinh tế, mà là khái niệm mang tính chính trị. Khái niệm không rõ ràng dễ dẫn đến sự lạm quyền của một số cán bộ nhà nước, dẫn đến lãng phí nguồn lực đất đai của người sử dụng đất.

Quy định về sở hữu toàn dân đối với đất đai chưa được cụ thể hóa một cách đầy đủ, chưa làm rõ được quyền của “toàn dân” với tư cách là chủ sở hữu. Trên thực tế, các quy định hiện hành của Hiến pháp chưa giải quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất; lợi ích của Nhà nước với người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng, dẫn đến việc sử dụng đất ở nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn nhiều; tình hình khiếu nại, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.

Theo tổng kết của ngành Thanh tra, thì khiếu kiện đất đai chiếm tới 70 – 80% trong tổng số khiếu kiện, nguyên nhân là do thu hồi đất trên quy mô lớn, đền bù giá rẻ, nông dân mất tư liệu sản xuất, con cái của họ không có việc làm, dễ sa vào tệ nạn xã hội.

Quy định về chế độ sở hữu toàn dân đối với tất cả các loại đất là không phù hợp với thông lệ quốc tế, cản trở sự phát triển của dân tộc theo dòng chảy tiến bộ của nhân loại.

Một số kiến nghị đối với Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Tình hình trong nước và quốc tế đã thay đổi so với 20 năm trở về trước, bởi vậy muốn Việt Nam phát triển, sử dụng tối đa được lợi thế cạnh tranh của mình là phát triển một nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, bền vững, thì các cấp, các ngành, người dân phải thay đổi tư duy về quyền sở hữu, đặc biệt quyền sở hữu đất nông nghiệp.

Nhằm thể chế hóa các mục tiêu, định hướng phát triển được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 2011), việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 về vấn đề sở hữu nói chung và sở hữu đất đai nói riêng là vấn đề cấp thiết.

Về thể chế kinh tế, cần quán triệt quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định trong Cương lĩnh 2011 là: nước ta có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và phân phối, bởi vậy, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung lần này nên đa dạng hóa hình thức sở hữu đất đai, theo đó, đất nông nghiệp nên thuộc sở hữu của nông dân.

Hiến pháp cần làm rõ nội hàm của từng hình thức sở hữu; phân định rõ quyền của người sở hữu, người sử dụng và quyền quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế; đồng thời, thể hiện thái độ của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về các loại sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về đất đai.

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần tiếp tục khẳng định hình thức sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu đối với đất công cộng, đất rừng nguyên sinh, tài nguyên dưới lòng đất và tài nguyên khác. Loại tài sản này nên giao cho Cục Công sản quản lý. Đối với sở hữu tư nhân, Dự thảo cần quy định việc tôn trọng và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1946.

Quyền sở hữu tư nhân về đất đai không ảnh hưởng đến quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất. Quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai chỉ cản trở Nhà nước, cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư trong việc thu hồi đất một cách độc đoán, đơn phương.

Quy định về sở hữu tư nhân, trước hết là đất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho người dân yên tâm đầu tư lâu dài trên đất của mình, tạo công ăn việc làm cho các thành viên của gia đình và cho xã hội.

Công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai là phù hợp với xu hướng của thời đại, phù hợp với Điều 17 của Tuyên ngôn Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 10-12-1948: “Ai cũng có quyền sở hữu, riêng tư hoặc hùn vốn với người khác. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản một cách độc đoán”. Đất đai là tài sản của quốc gia, đồng thời cũng là tài sản của mỗi gia đình, cá nhân do mồ hôi, công sức của họ tạo lập nên. Bởi vậy, pháp luật cần bảo hộ quyền tài sản chính đáng đó. Không ai có quyền tước đoạt hoặc thu hồi tài sản một cách độc đoán, đơn phương.

Sở hữu tư nhân, đặc biệt đối với đất nông nghiệp cũng có nghĩa là thực hiện mục tiêu của cách mạng dân tộc Việt Nam là bảo đảm nguyên tắc “người cày có ruộng”, khi mà 70% dân số nước ta sinh sống ở nông thôn và liên quan tới nghề nông. Nếu đất nông nghiệp thuộc sở hữu tư nhân thì không cần quy định thời hạn sử dụng đất nữa. Sở hữu tư nhân là lâu dài, ổn định.

Thay cho lời kết, xin trích lời của GS, TS. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường nhận định rằng: “Việt Nam cần lựa chọn chế độ sở hữu phù hợp với đất đai trong giai đoạn hiện nay”. Bài viết với tựa đề “Sở hữu tư nhân về đất đai là tất yếu” trên báo điện tử Saigon Tiếp Thị ngày 19-03-2011./.

PGS, TS. Trần Thị Cúc – Học viện Hành chính
 
Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/du-thao-sua-doi-nam-1992/2013/20454/Ve-quyen-so-huu-dat-dai-trong-Du-thao-sua-doi-Hien.aspx