Global Witness Và Nước Mắt Môi Trường

 

MAY 22, 2013 BY  LEAVE A COMMENT

T/S Alan Phan

22 May 2013

Con người phải hiểu rằng chúng ta không thể sống nếu không có Mẹ Trái Đất, nhưng hành tinh này vẫn có thể sống mà không cần chúng ta.  Evo Morales
 

 Kinh tế phá rừng

 Dù đau xót khi chứng kiến sự tàn phá vô cảm của con người với rừng (lá phổi của trái đất), tôi vẫn chưa nghĩ ra sự thiệt hại về kinh tế cho đến khi đọc bài blog của B/S Hồ Hải vè giá trị của lâm sản. Theo B/S Hải, mỗi m3 của gỗ trắc tốt Việt Nam có giá khoảng 36,000 USD trong khi loại gỗ rẻ nhất cũng thu về hơn 15,000 USD mỗi m3. Một vòng qua google về giá cả của các cây rừng nguyên sinh xác nhận khung giá này.

 Năm 1993, tổng số gỗ trong các khu rừng Việt là 1,025 triệu m3 (khoảng 76 m3/mẫu-hectare trên 14 triệu mẫu diện tích). Vài nghiên cứu khác chỉ ghi nhận đến 728 triệu m3. Giai đoạn 1993 đến 2009, cả nước mất khoảng 7,650 mẫu mỗi năm hay 122,400 mẫu trong 16 năm tương đương với 9.3 triệu m3 gỗ. Nếu tính giá bèo là 15,000USD mỗi m3 gỗ bán ra, các lâm tặc và đồng lõa đã bỏ túi 139 tỷ USD. Đây là một mất mát lớn gấp 30 lần Vinashin, bằng 115% GDP của Viêt Nam trong 2012 và gấp 3 lần số nợ xấu của các ngân hàng theo báo cáo hiện nay. Số tiền này có thể xây 7 triệu nhà xã hội (20,000 USD mỗi căn) để tặng không cho các hộ nghèo; hay trả tiền ăn học cho 25 triệu trẻ em miền sâu miền xa trong 12 năm học (trung bình 500 USD/năm/em).

 Dĩ nhiên, tôi và đến 99% dân số không có thẩm quyền gì về pháp luật nên những phân tích…chỉ là những phân tích. Tuy nhiên, sự im lặng tuyệt đối của xã hội với một vấn nạn kinh tế tầm cỡ này là một điều khó nuốt cho mỗi bữa ăn.

 Global Witness

 Nhìn lại hoạt động của Global Witness (GW) trong 20 năm vừa qua, chúng ta nhận thấy là GW đã trung thực đi đúng với tôn chỉ và mục tiêu của tổ chức. Một là giúp cho những hộ nghèo ở vùng có tài nguyên không bị các thế lực tư bản hay quan chức “móc túi” cho nghèo thêm; hai là bảo vệ môi trường “sống” cho toàn cư dân của trái đất. Họ đã thành công ngăn chận “kỹ nghệ kim cương máu” ở Phi Châu cũng như những tàn phá rừng và khai thác gỗ ở Campuchia thời Khmer Đỏ, ở Indonesia, ở Liberia, ở Myanmar…

 Phương thức hoạt động của họ không nhắm vào quan chức hay công ty địa phương, mà vào các nhà tư bản Tây phương đang đổ tiền tài trợ cho các dự án này Trong phi vụ kim cương máu”, mục tiêu chính là tập đoàn kim cương lớn nhất thế giới, DeBeers. Khi bị áp lực của dư luận người tiêu dùng không muốn vấy bẩn vào “kim cương máu”, DeBeers ngưng thu mua và thị trường teo tóp ngay qua đêm. Mục tiêu khi tấn công vào việc phá rừng khai thác lâm sản của các quốc gia đã nêu tên là vào các nhà tài trợ dự án và các công ty mua bán gỗ.

 GW làm việc hoàn toàn dựa trên nguyên lý tư bản,” Khi dòng tiền ngưng chảy vào một lãnh vực kinh doanh, các dự án sẽ tự hủy diệt theo thời gian”. Người Tàu hay nói, “con cá nó sống vì nước”.

 Vì được tài trợ một phần bởi các chánh phủ Anh, Mỹ, Âu…GW không bao giờ đụng trực tiếp đến các tầng lớp chánh phủ hay quan chức, vì đây là phạm trù của Bộ Ngoại Giao của các chánh phủ tài trợ cho họ. GW biết nên không bao giờ lấn sân qua các hoạt động chánh trị hay đánh đấm với các công ty địa phương.

 Cho nên khá khôi hài khi các công ty Việt Nam có tên trong bản cáo buộc của GW lên tiếng phản bác, phủ nhận hay mời GW dến thăm quan cơ sở. Cũng như khi các chánh phủ Việt, Miên, Lào…vội kết tội “phản động” cho GW với chiếc mũ “thế lực thù địch”. Cả trăm tờ báo lề phải được huy động hay trả tiền để bới móc, lăng mạ GW hay nhà sáng lập George Soros. Các ngài đã phản ứng quá nhanh, quá nhậy và tốn tiền cũng như thời giờ vô ích.Tất cả các mạng truyền thông thế giới không chút quan tâm đến các phản bác của các ngài và chỉ đợi phản ứng chính thức từ các nhà tư bản tài trợ như Deutsche Bank, IFC, Temasek Holdings, BIDV hay quỹ Jaccar…

Tư bản có trách nhiệm

 GW là một công cụ của thế giới tư bản để chống lại những lạm dụng quá đà của quyền lực. Những nhà tư bản thường cho là mình “bất bại” và trong mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cho công ty, các nhà quản lý đôi khi vượt qua ranh giới của lương tâm để đạt “chiến thắng”. Những hoạt động vô vụ lợi của GW là tiếng còi báo động sớm cho các công ty đa quốc, các ngân hang, quỹ đầu tư thế giới cũng như các mạng truyền thông chính thống khác.

 GW (và các nhóm vô vụ lợi khác của toàn cầu) cộng với tự do ngôn luận là những rào cản hữu hiệu để nền kinh tế tư bản có được một chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm với xã hội chung quanh. Vì lòng tham con người là vô hạn nên chúng ta cần những công cụ như GW, dựa trên những lý tưởng đáng ca ngợi của tuổi trẻ còn biết cảm xúc với những nỗi đau của con người và thiên nhiên. Đó mới thực sự là cốt lõi của văn hóa và văn minh nhân loại.

 Lại chuyện mất hay được?

 Một câu hỏi khác của một nhà báo cũng làm tôi phải suy nghĩ. Là người Việt, ông phải ủng hộ doanh nhân Việt chống lại bọn “ngoại xâm”. Ông nghĩ thế nào về hậu quả kinh tế cho ngành cao su Việt Nam khi đối diện với cáo buộc của GW?

 Thú thật, tôi yêu quê hương nhưng không có một lòng ái quốc cuồng tín.  Tôi tự hào với thành quả tốt đẹp mà các sinh viên, các khoa học gia, các doanh nhân Việt đã gặt hái trên khắp thế giới. Nhưng tôi cũng xấu hổ khi đọc về những tội phạm ma túy, xã hội đen Việt…trên các mạng truyền thông toàn cầu. Tôi xấu hổ khi phần lớn đối tác, bạn bè, sinh viên ngoại…vẫn nghĩ đến Việt Nam như là một banana republic (cộng hòa quả chuối).

 Về hệ quả kinh tế, chúng ta sẽ thâu nhặt những gì chúng ta đã gây trồng. Nếu các nhóm môi trường và các định chế truyền thông khác tham gia để tăng cường độ của lời cáo buộc, tôi nghĩ là nhiều cổ đông hay quỹ đầu tư sẽ rút ra khỏi các dự án cao su của Đông Dương để tránh tai tiếng. Ngoài sự thiếu hụt cho dòng tiền luân chuyển, các công ty có thể còn bị sức ép về giá cả nếu các nhà tiêu dùng lớn tìm nguồn cung cấp khác ngoài Đông Dương. Đây là rủi ro lớn nhất về lâu dài.

 Tuy nhiên, sau khi bỏ túi ngon lành 139 tỷ đô la trong 16 năm qua, các đại gia Việt có thể mất vài tỷ đô la? Chỉ là muối bỏ biển. Các chân dài kiếm nhiều hơn thế từ các đại gia trong 6 năm qua.

Alan Phan

http://luanvan.co/luan-van/hien-trang-suy-giam-tai-nguyen-rung-o-viet-nam-6146/

NHNN lấy đâu ra tiền cho vay mua nhà và mua nợ xấu?

 

Đối với người không chuyên như chúng ta, có lẽ cũng không cần hiểu “tài khóa” và “tiền tệ” là gì, khác nhau như thế nào. Khổ nỗi, chúng là những khái niệm cơ bản để hiểu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy đâu ra tiền để rót vào bất động sản cũng như lấy đâu ra tiền để giải quyết đống nợ xấu mà không sử dụng đến ngân sách.
 
Tài khóa khác tiền tệ
 
Nói một cách đơn giản hóa, Bộ Tài chính lo các “chính sách tài khóa”; Ngân hàng Nhà nước lo các “chính sách tiền tệ”.
 
“Chính sách tài khóa” thì liên quan đến việc tăng (giảm) thuế, tăng (giảm) mức chi tiêu của chính phủ. Chính phủ thu thuế và các nguồn khác vào ngân sách để có tiền mà chi tiêu. Chi nhiều hơn thu sẽ dẫn tới bội chi, lúc đó phải vay tiền về mà tiêu. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Chính phủ có thể giảm thuế cho doanh nghiệp và người dân hoặc tăng đầu tư từ ngân sách nhưng chính sách tài khóa như thế có giới hạn nhất định vì giảm thuế mãi lấy tiền đâu để ngân sách đầu tư ra xã hội. Chi tiêu như thế phải được Quốc hội phê duyệt hàng năm.
 
“Chính sách tiền tệ” thì liên quan đến lãi suất và nguồn cung tiền. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, NHNN có thể tăng nguồn cung tiền và nhờ đó giảm lãi suất. Lãi suất giảm thì kích thích doanh nghiệp đầu tư. Nhưng tiền bơm ra đến một mức nào đó sẽ gây ra lạm phát. Hay nói cách khác khi lạm phát cao thì NHNN phải tăng lãi suất, giảm cung tiền.
 
Nay 30.000 tỷ đồng bơm ra thị trường cho người dân vay để mua nhà và doanh nghiệp vay để xây nhà xã hội là từ bên nào? Không phải từ bên tài khóa (Bộ Tài chính) vì ngân sách đang thâm hụt, lấy đâu ra tiền mà bơm cho bất động sản. Mà lấy từ ngân sách thì phải báo cáo xin phép Quốc hội phiền phức lắm.
 
30.000 tỷ đồng này lấy từ NHNN. Vậy câu hỏi là NHNN lấy đâu ra tiền để làm chuyện này? Câu trả lời rất đơn giản: NHNN in tiền.
 
In tiền như thế nào?
 
Ở đây lại cần phải nói cho rõ: Hàng năm NHNN phải in một lượng tiền giấy nhất định (in tiền theo nghĩa đen) để thay thế tiền cũ, rách nát và bổ sung vào lượng tiền mặt đang lưu hành trên thị trường theo kế hoạch đã định trước. Còn nói NHNN “in tiền” đối với khoản 30.000 tỷ đồng nói trên là nói theo nghĩa bóng. Không có chuyện máy in chạy rầm rập in ra chừng ấy tiền mà đơn giản là NHNN ghi có một khoản tiền như thế cho các ngân hàng tham gia chương trình. Các ngân hàng lúc này lấy tiền ra để cho vay. Khỏe re!
 
Nếu mọi việc êm xuôi, 10 năm sau khách hàng trả nợ, ngân hàng thương mại trả lại cho NHNN, tức xóa đi cái khoản ghi nợ ngày xưa. Ai nấy đều vui vẻ.
 
Nhưng sự đời thường không êm xuôi.
 
Đầu tiên, hành động của NHNN đó gọi chính thức là “tái cấp vốn”, nghe rất mơ hồ, khó hiểu. Thực chất, đây là cách NHNN cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho ngân hàng, đặc biệt khi ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản. Chú ý đến từ “ngắn hạn” – tức dưới một năm. Nay NHNN lách chuyện “ngắn hạn” bằng cách quy định: “Thời hạn tái cấp vốn cho vay hỗ trợ nhà ở từng lần là 364 ngày và tự động được gia hạn đối với dư nợ tái cấp vốn còn lại tại thời điểm đến hạn thêm 01 (một) thời gian bằng thời hạn tái cấp vốn lần đầu. Việc tự động gia hạn được thực hiện tối đa kéo dài đến ngày 01/6/2023”. Cũng thật là khỏe re một kỹ thuật lách luật!
 
Thứ hai, luật cũng có nói, để được tái cấp vốn, ngân hàng phải đem một cái gì đó lên thế chấp với NHNN (như cầm cố trái phiếu), ở đây không thấy nói yêu cầu gì từ phía ngân hàng tham gia.
 
Như đã nói ở trên, tiền bơm vào nền kinh tế như thế sẽ gây áp lực lên lạm phát và nhiều hệ lụy khác. Còn nhớ các lần “bù lãi suất 4%” vào năm 2009 đã vừa gây ra lạm phát, vừa dẫn đến những khoản nợ xấu khổng lồ hiện nay. Giả thử một tỷ lệ nhất định người vay mua nhà không trả được nợ, NHNN sẽ gánh khoản lỗ này.
 
Quan trọng hơn, cái hình thức “tái cấp vốn” dễ dàng như thế đang được NHNN lạm dụng trong nhiều trường hợp khác như hứa hẹn cấp 10.000 tỷ đồng tái canh cây cà phê ở Tây Nguyên. Rồi sắp tới, giải quyết nợ xấu, NHNN cũng sẽ dùng “chiêu” tái cấp vốn để hóa giải nợ xấu cho các ngân hàng với khoản tiền dự kiến không còn vài chục ngàn mà có thể lên cả trăm ngàn tỷ đồng. Biết bao nhiêu tiền sẽ được “in” ra, biết bao nhiêu rủi ro đang chực chờ phía trước.
 
Mua bán nợ xấu
 
Giả thử bạn cho người hàng xóm vay 100 triệu đồng, đến hạn rồi quá hạn một năm người này vẫn không trả được nợ, nợ biến thành nợ xấu. Đòi không được, bạn tính đến chuyện nhờ một công ty dịch vụ chuyên đi đòi nợ thuê đòi nợ, bên này đòi chi phí đến 50 triệu đồng. Nói cách khác bạn sẽ “bán” khoản nợ 100 triệu đồng cho công ty này với giá 50 triệu, vậy còn hơn không đòi được đồng nào.
 
Như vậy bán một khoản nợ xấu được bao nhiêu là tùy thương lượng giữa bạn và công ty đòi nợ, khả năng đòi khó thì giá còn giảm nữa.
 
Hôm qua Chính phủ vừa ra nghị định thành lập công ty mua bán nợ kiểu như thế nhưng có những đặc điểm rất lạ. Theo dự thảo trước đó, công ty này mua nợ của các ngân hàng bằng mệnh giá (tức ở đây mua đúng 100 triệu luôn), nhưng không trả bằng tiền mặt mà trả bằng tờ giấy nhận nợ (trái phiếu). Xong rồi ngân hàng đem tờ trái phiếu này lên NHNN, đưa cho NHNN như một dạng cầm cố, NHNN mới đưa cho ngân hàng một cục tiền ghi trong sổ sách (gọi là tái cấp vốn như nói ở trên) nhưng cục tiền này không bằng mệnh giá trái phiếu mà nhỏ hơn (kiểu như 100 triệu nợ, giờ chỉ còn 30 triệu, chẳng hạn).
 
–          Lẽ ra công ty mua bán nợ là nơi định giá khoản nợ chứ không phải NHNN.
–          Công ty mua bán nợ không bỏ tiền ra nên thực tế là ngân hàng chủ nợ bán nợ cho NHNN, cái công ty mua bán nợ chỉ là một dạng trung gian.
–          NHNN dùng “chiêu thức” tái cấp vốn nên đúng là không sử dụng ngân sách nhà nước nhưng sẽ phải đảm nhiệm một mớ tài sản xấu, lại phải tung ra thị trường một lượng tiền lớn, gây áp lực lên lạm phát.
–          Lạ nhất là phát biểu của đại diện NHNN: “Các doanh nghiệp có nợ xấu bán cho VAMC sẽ được tiếp tục vay vốn của TCTD theo quy định hiện hành”. Nhớ lại ông hàng xóm trên, lẽ ra phải liệt ông vào dạng khó chơi, bắt ổng chịu một phần trách nhiệm nay lại cho ông vay tiếp, lại đẻ ra nợ xấu tiếp.
–          Ở trên bạn bán nợ cho công ty dịch vụ, nơi này sẽ tích cực đi đòi nợ, thu tiền về. Đằng này cái công ty mua bán nợ sắp được thành lập làm sao có đủ người, đủ kinh nghiệm và đủ nguồn lực khác để đi đòi nợ. NHNN thì không thể trực tiếp đi đòi nợ rồi.
–          Thực chất đây chỉ là cách tạm thời chuyển nợ xấu từ ngân hàng qua cái công ty trung gian kia, sổ sách ngân hàng đẹp lên, hy vọng họ sẽ sẵn lòng cho vay tiếp. Còn cái cục nợ kia, hy vọng từ từ doanh nghiệp làm ăn khá trở lại sẽ trả được nợ.
 
Các tổ chức như IMF từng cảnh báo các ngân hàng trung ương không nên đảm nhiệm những công việc lẽ ra thuộc bên “tài khóa” vì làm thế sẽ gây áp lực lên lạm phát, đi ngược lại vai trò chủ yếu của một ngân hàng trung ương. Thôi đành quan sát chờ xem NHNN sẽ xoay xở thế nào với lạm phát – gói bù lãi suất 4% ngày xưa nay trở thành nợ xấu – nợ xấu được giải quyết bằng tái cấp vốn – để xem nó lại biến thành cái gì nữa đây.

Thống đốc Nguyễn Văn Bình

BBC tiếng Việt

Phạm Chí Dũng, gửi cho BBC từ Sài Gòn

Cập nhật: 04:50 GMT – thứ tư, 8 tháng 5, 2013

1

 

Chỉ trong chưa đầy hai năm từ khi trở thành lãnh đạo đầu bảng của Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Văn Bình đã dính líu trực tiếp về trách nhiệm đối với ít nhất hàng trăm ngàn doanh nghiệp phải giải thể và phá sản cùng tình trạng thất nghiệp lan tràn không thể thống kê ở Việt Nam.

Tháng 4/2013, lần đầu tiên từ khi chấp nhiệm chức vụ thống đốc, ông Nguyễn Văn Bình và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành một văn bản chưa có tiền lệ: đề nghị Tổng cục An ninh II thuộc Bộ Công an phối hợp xử lý theo pháp luật vụ việc báo Thanh Niên đăng bài “Từ thống kê về Việt Nam của Hiệp hội vàng thế giới: “Rửa” vàng bằng cơ chế?”.

Công văn trên, không đóng dấu mật theo nguyên tắc bảo vệ nội bộ, được Ngân hàng Nhà nước tung ra trong một cuộc họp báo cùng ngày với bài đăng tải trên báo Thanh Niên, cho rằng bài báo đã “cố tình suy diễn, bóp méo hàng loạt chủ trương chính sách của Nhà nước về quản lý thị trường vàng, chuyển tải tới người đọc thông tin sai về cơ chế, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng nhà nước, tạo sự hoài nghi đối với các chủ trương, chính sách quản lý thị trường vàng… của các cơ quan nhà nước”.

Đúng bảy năm sau vụ PMU18, một lần nữa tờ báo của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có nguy cơ phải đối mặt với vành móng ngựa.

Chỉ nhẹ nhàng đề cập đến cơ chế tạm xuất – tái nhập vàng, cùng việc tham khảo những số liệu của Hiệp hội vàng thế giới, báo Thanh niên đặt ra câu hỏi phải chăng đã có một cuộc rửa vàng mang lại lời lãi khủng khiếp cho nhóm lợi ích.

Dù bài báo chỉ có vậy, song dường như cơ quan được xem là cánh tay phải của Chính phủ lại vẫn muốn “cánh tay phải của Đảng” không bị nhiễm những thói hư tật xấu của “lề trái”.

Bởi điều luôn bị xem là cố tật khó bỏ của Ngân hàng nhà nước và bản thân Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại là thói quen mập mờ trong diễn giải thực trạng cùng những số liệu khá bất nhất.

Là một trong những quan chức cao cấp nêu ra nhiều hứa hẹn nhất, vào năm 2012 ông Bình đã thản nhiên khẳng định ông đã “làm những gì đã hứa”.

Một trong “Làm những gì đã hứa” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình trong 20 tháng qua là thành tích “bình ổn thị trường vàng”.

Vàng: Lấy dân nuôi nó?

Suốt từ tháng 10/2011 – thời điểm Ngân hàng Nhà nước chính thức phác ra đề xuất về đề án huy động vàng trong dân mà đã gây tranh cãi sôi động, cho tới nay ngay cả hoạt động nhập khẩu vàng của các doanh nghiệp 2cũng chưa từng được Ngân hàng Nhà nước công bố theo cách “minh bạch hóa”, từ mà ngân hàng này dùng để trấn an dư luận.

Ngay từ cuối năm 2011, giới chuyên gia phản biện đã rộ lên nhiều ý kiến phản ứng đối với sính ngữ “minh bạch hóa” của Ngân hàng nhà nước.

Nguồn cơn của việc thiếu minh bạch cơ chế nhập khẩu vàng, hiểu một cách đơn giản, là một khi người dân nắm được tình hình cung tương đương hoặc lớn hơn cầu, giá vàng trong nước sẽ bắt buộc phải “bám sát giá thế giới”.

Nhưng trong suốt thời gian gần hai năm qua, giá vàng trong nước đã không một lần “bám sát giá thế giới”. Hoàn toàn đảo lộn, bị nạn đầu cơ “bóp méo” và liên đới trực tiếp đến trách nhiệm báo cáo và phát ngôn của ông Nguyễn Văn Bình, giá vàng trong nước luôn duy trì một khoảng cách biệt rất lớn so với giá vàng quốc tế.

Khoảng cách đó lại chính là lợi nhuận của SJC – một công ty chủ lực về nhập khẩu và kinh doanh vàng mà vào cuối năm 2011, một số tờ báo trong nước đã “tiết lộ” về một mối quan hệ nào đó giữa Thống đốc Nguyễn Văn Bình với công ty đầy tiềm năng này.

Cũng vào cuối tháng 11/2011, trong buổi trả lời chất vấn trước Quốc hội, thống đốc Nguyễn Văn Bình lần đầu tiên tiết lộ ý định sẽ đưa SJC trực thuộc sự quản lý của Ngân hàng nhà nước và tập trung thế độc quyền sản xuất, kinh doanh vàng miếng vào công ty này.

Những nghi ngờ của dư luận về mối quan hệ thân thiết giữa ông Nguyễn Văn Bình và “tập đoàn độc quyền”’ SJC càng trở nên rõ rệt hơn theo thời gian. Không ít lần báo chí Việt Nam đã đề cập đến việc SJC có được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ “cơ chế ưu ái” mà Ngân hàng nhà nước đã dành cho công ty này.

“Nhóm lợi ích vàng” cũng là thuật ngữ lần đầu tiên được phát lộ vào thời gian cuối năm 2011.

Người ta còn ngờ rằng giải pháp “lấy nó nuôi nó” – được thể hiện trong đề án huy động vàng của Ngân hàng nhà nước vào cuối năm 2011 – thực ra chỉ là một bức bình phong giúp cho các doanh nghiệp vàng có thêm thời gian để tiếp tục bán vàng giá cao, bao gồm vàng tự có và lượng vàng đã nhập khẩu, theo phương châm riêng của họ: lấy vàng nuôi vàng.

Tức giá vàng trong nước được các “ông lớn” trong giới kim loại quý điều chỉnh cuộc chơi theo trình tự: áp giá thấp để thu mua rồi mang đi xuất khẩu trong trường hợp giá thế giới cao hơn; giữ giá trong nước cao, nhập khẩu vàng về bán trong trường hợp giá vàng thế giới thấp hơn!

Nếu mọi chuyện đúng như quy trình khép kín trên, và trong thực tế lại có không ít biểu lộ cho thấy nghi ngờ trên là không thể khép kín, đã không hề có một quy trình khả thi nào về việc lấy vàng nuôi vàng, mà chỉ có thể là “lấy dân nuôi nó”.

“Nó” ở đây, không phải ai khác, chính là nhóm lợi ích vàng.

Vàng: chính sách thất bại hoàn toàn!

Ngày 15/12/2011, ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã được báo điện tử Vnexpress bình chọn là “Nhân vật của năm 2011”.

Cũng cùng thời điểm trên, nạn đầu cơ vàng lại tái diễn.

Ở một khía cạnh khác, ý nghĩa sâu sắc đã thể hiện một cách lộ liễu và thách thức. So với “tiêu chí” mà ông Nguyễn Văn Bình nêu ra khi mới nhậm chức thống đốc “chỉ cần giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 400.000 đồng/lượng là có dấu hiệu đầu cơ”, điều có thể được gọi là “dấu hiệu đầu cơ” đã thường vượt gấp 10 lần chiều cao của chính nó.

Chiều cao đó lại là là chiều sâu lợi nhuận của kẻ đã tạo ra nó.

Trong khi đó, một trong những bản báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã nêu ra một đánh giá rất đáng lưu tâm: “Việc triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm ổn định giá vàng và thị trường vàng trong nước đã góp phần đưa giá vàng trong nước bám sát với giá vàng thế giới; giới đầu cơ đã không còn khả năng thao túng thị trường”.

Nhưng cho đến tháng 4/2013, chênh lệch giữa giá vàng trong nước với giá vàng thế giới đã vọt lên đến mức kỷ lục: 7 triệu đồng/lượng.

Sự cải thiện hình ảnh theo chiều hướng tuột dốc của Ngân hàng Nhà nước cũng vì thế đã đi xuống từ tháng 10/2011 cho đến nay.

Bất kể Nguyễn Văn Bình đã trở thành “Nhân vật của năm 2011” hay tuyên bố “Làm những gì đã hứa”, cho tới nay người ta hoàn toàn dễ dàng nhận ra rằng với cách thức điều hành trên cương vị trọng trách về quản lý thị trường vàng của ông, nạn đầu cơ vàng vẫn còn nguyên những hàm ý sâu sắc của nó – liên quan đến những biến tướng về hình thể và không hề thay đổi về bản chất.

Chuyên gia phản biện kinh tế Lê Đăng Doanh đã phải thốt lên: “Có thể nói tất cả chính sách điều hành về thị trường vàng của Ngân hàng nhà nước áp dụng đến nay đã thất bại hoàn toàn!”

Con đường ngắn nhất để tự sát

3“Thất bại hoàn toàn” cũng hiện ra ở đoạn cuối con đường tín dụng.

Qua gần hai năm kể từ lúc ông Nguyễn Văn Bình nhậm chức thống đốc Ngân hàng Nhà nước, trong khi giá vàng và nạn đầu cơ vàng vẫn không ngớt nhảy múa theo một điệp khúc như đã được dàn xếp kịch bản, dòng chảy tín dụng vào khối doanh nghiệp và dân sinh lại chìm lắng không sủi tăm.

Những cái Tết chính là tiêu điểm để đo đếm sâu xa nhất về hố phân cách người cười kẻ khóc.

Những ngày sát Tết 2012, hơi thở cuộc sống toát ra một hương vị lạnh lẽo và xa lạ. Phản ánh của báo chí đã mô tả về hàng trăm ngàn công nhân không có đủ tiền chỉ để mua vé tàu về quê. Nhiều thân phận làm thuê trở nên lạc lõng trong không khí phố phường đô thị.

Nguồn cơn của hơi thở ảm đạm cũng đến từ hàng chục ngàn doanh nghiệp, vốn đã vật vã trong suốt năm 2011 vì suy thoái kinh tế, không biết tìm đâu ra tiền để thanh toán đủ lương tháng cho người lao động.

Nhưng đó lại là những ngày mà nhân viên ngân hàng rạo rực tiền thưởng Tết – lên đến năm bảy chục triệu đồng cho mỗi đầu người.

Phần lớn các ngân hàng cũng đua nhau khoe sắc lợi nhuận nhiều ngàn tỷ đồng đã kiếm được “trên nỗi đau của người khác”.

Nỗi đau đó lại được khắc tượng ghi hình: việc lao đầu vào vay với mức lãi suất 21-23%/năm là con đường ngắn nhất dẫn các doanh nghiệp sản xuất đến chỗ tự sát.

Trong một năm trời từ giữa 2011 đến giữa 2012, thị trường tín dụng đóng băng và hầu hết các cánh cửa đối với doanh nghiệp cũng đều đóng chặt.

Bất chấp lời kêu cứu của đại bộ phận doanh nghiệp và ít nhất 55.000 doanh nghiệp không còn khả năng lên tiếng, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn treo cao ở mức “không giống ai” – như nhận định của những chuyên gia luôn đau đáu về hiện tồn hệ thống ngân hàng Việt Nam một mình một chợ trên thế giới.

Vào quý 2 năm 2012, trừ BIDV, Vietcombank và một ít ngân hàng thương mại khác, số còn lại vẫn gần như đóng cửa với doanh nghiệp. Lý do? Họ chờ đợi những động thái mới của Ngân hàng Nhà nước.

Nhưng sự chờ đợi như vậy lại kéo dài quá lâu, cũng không hề diễn ra một hình ảnh “thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” nào. Càng chẳng có một hy vọng nào cho sự hy sinh tự nguyện của các ngân hàng.

Những ngày gần Tết 2013, sức tiêu thụ hàng hóa giảm đến 30-40% so với thời gian gần Tết năm 2012 là một minh chứng điển hình. Cùng với sự sụt giảm về nhu cầu mua sắm là tỷ lệ hàng tồn kho tăng mạnh đến 20-30%.

Ngay cả những doanh nghiệp còn tiềm năng sản xuất vẫn nhìn rõ một nguy cơ nào đó có thể “chết trên đống tài sản của mình”.

Tết 2013 cũng là thời điểm mà số doanh nghiệp phải giải thể và phá sản đã được Ủy ban thường vụ quốc hội chính thức công bố: 100.000.

Độ trơ lì lợm

Trong hơn một năm trời, các ngân hàng đã biến doanh nghiệp và người dân thành con tin của họ, nhưng chẳng bao lâu sau, ngân hàng lại trở thành nạn nhân của chính mình.

Từ trạng thái “khó khăn thanh khoản” vào năm 2011 như trần thuật không ngớt của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, cho đến sự chuyển trạng thái đột ngột vào đầu năm 2012 khi “thanh khoản được cải thiện”, và tới giữa năm 2012 thì thanh khoản bỗng trở nên “dồi dào”, cùng với dấu hiệu phát lộ từ một số ngân hàng về trạng huống vốn tồn ứ ở mức cao.

Trong một cuộc họp của giới ngân hàng vào cuối tháng 3/2012, lãnh đạo của ACB – một ngân hàng tư nhân thuộc loại lớn nhất ở Việt Nam, đã tiết lộ một thông tin chưa có tiền lệ: ngân hàng này dư thừa đến 3 tỷ USD mà không cho vay được.

Sau đó, hàng loạt ngân hàng khác như Vietinbank, Eximbank, BIDV… đã thừa nhận về sự thật khó tưởng tượng như thế. Ước tính của chuyên gia cho thấy con số dư thừa vốn có thể lên đến khoảng 200.000 tỷ đồng.

Dư thừa vốn đã trở thành nỗi đau của những nhà giàu và của cả kẻ nghèo hèn không đồng xu dính túi.

Quá già hóa non – như một câu tục ngữ của người Việt. Vốn ngân hàng bị găm vào thế không thể tiêu thụ được, không chỉ do mặt bằng lãi suất cho vay vẫn treo rất cao, mà bởi điểm bùng vỡ đã bị giới ngân hàng đẩy vượt qua giới hạn của nó: nền kinh tế mất hẳn sức sống, vòng quay vốn trong hai năm 2011 và 2012 chỉ còn 0,8 lần so với 2 lần của những năm trước đó.

Nhiều doanh nghiệp phải thốt lên “không biết vay vốn để làm gì!”.

Đình đốn sản xuất cũng là thực trạng mà nền kinh tế cùng phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang lâm vào, một thực trạng không thể phủ nhận được với tỷ lệ hàng tồn kho một số ngành lên tới 60-70%, sức sản xuất4 giảm đi 30-40%, bất chấp những con số vẫn thường cho thấy “những chuyển biến tích cực” về GDP hay chỉ số tăng trưởng ở một số khu vực, như báo cáo thường thấy của những ngành tham mưu đắc lực cho chính phủ như Ngân hàng nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công thương, Bộ tài chính…

Hàng ngày, người dân đọc thấy nhan nhản trên báo chí các thông tin về ngành thủy sản, mía đường, da giày, cà phê, thép, xi măng, cá tra, tôm… đang trong tình trạng nguy cấp, với tỷ lệ bình quân đang lâm vào nguy cơ phải phá sản và ngừng hoạt động lên đến 30-40%, thậm chí có ngành đến 2/3.

Gậy ông đập lưng ông – lợi nhuận ngành ngân hàng toàn quốc vào đầu năm 2013 cũng đã bị sụt giảm đến hơn phân nửa so với một năm trước đó. Tại TP.HCM, tình hình lợi nhuận còn thê thảm hơn khi chỉ bằng 4% so với đầu năm 2012.

Độ trơ của thị trường đã trở nên lì lợm – hệt như những khuôn mặt quan chức vẫn nhắc đi nhắc lại điệp khúc “đề phòng lạm phát”, nhưng lại không thiếu ý chí “vươn lên một tầm cao mới” ứng với giá xăng dầu và giá điện tăng vọt.

Con tin

Phải chăng để hạn chế lạm phát mà Ngân hàng Nhà nước đã thắt quá chặt dòng chảy tín dụng?

Một con số mà chỉ sau Tết Âm lịch 2012 mới lộ ra là vào trước tết, Ngân hàng nhà nước đã bơm khoảng 76.000 tỷ đồng cho các ngân hàng – một động thái được đánh giá là nhằm cứu thanh khoản của ngân hàng.

Một con số khác mà vào đầu tháng 4/2012 mới được tiết lộ là lượng tiền mà Ngân hàng Nhà nước bơm vào thị trường liên ngân hàng trước tết lên đến hơn 170.000 tỷ đồng.

Cùng với những tuyên bố về “thanh khoản dồi dào” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình, con số bơm tiền của Ngân hàng Nhà nước cho một số ngân hàng thương mại là bằng chứng rõ rệt cho thấy ngân hàng không thiếu tiền. Chỉ có điều, nghịch lý ghê gớm lại xảy ra khi đa số thành phần khác của nền kinh tế không thể tiếp cận được nguồn tiền ấy.

Đó cũng chính là nguyên do vì sao nền kinh tế rơi vào suy thoái nhanh chóng cùng sức cầu xã hội gần như biến mất.

Một lần nữa, báo chí và dư luận phẫn nộ: phải chăng lãi suất và các nhóm lợi ích nào đó đứng đằng sau nó đang biến các doanh nghiệp sản xuất, người lao động và một phần không nhỏ nền kinh tế quốc dân thành con tin?

Và tại sao duy trì được trần lãi suất huy động nhưng không giảm được lãi suất cho vay?

Hơn ai hết, khoảng 2/3 số doanh nghiệp Việt Nam đứng trước nguy cơ thiếu vốn trầm trọng – một trong những tiền đề có thể dẫn tới phá sản và gây nhiều hệ lụy cho nền kinh tế.

Nhưng khác nhiều với các báo cáo của ngành ngân hàng về “giảm đáng kể”, lãi suất cho vay hiện thời vẫn được các ngân hàng duy trì ở mức 15-17%/năm. Song Ngân hàng Nhà nước lại không thể nào “điều tiết linh hoạt” được các ngân hàng thương mại để giảm lãi suất cho vay, với một trong những lý do then chốt mà báo chí tiết lộ là ngân hàng thương mại vẫn cần có thời gian để tiêu thụ lượng tín dụng đã huy động với “giá cao” trước đó.

Tình hình quay quắt như thế vẫn còn kéo dài cho đến nay, khi báo chí trong nước một lần nữa gào thét về chuyện “doanh nghiệp chết như ngả rạ”, còn thống đốc Ngân hàng Nhà nước đang khuấy động chiến dịch “bình ổn thị trường vàng” với một thông điệp chưa từng có “Chênh lệch giá vàng là thuộc về đất nước, thuộc về nhân dân”, và Chính phủ lại đang tìm cách hướng ngoại để có thể tham gia vào Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP).

(Còn tiếp)

Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do ở TP HCM.

TRIẾT LÝ BỐNG DỪA

Phóng sự vui (Lời nhân vật nhiều chỗ “trùng” với lời tác giả (Hiii) và bạn đọc cần kiểm chứng vài chi tiết trước):

Nhã dùng móng ngón tay cái phải, ngắt đoạn ngắn thân của con vật giống con giun mềm, nhầy, màu đỏ, có chân như sâu róm đánh “sật”, rồi thoăn thoắt móc vào lưỡi câu, cầm cần cho mồi xuống nước, giật lên liền. Chúng tôi có cảm giác nổi da gà. Một con cá bằng ngón tay cái đã dính câu. Nhã hươ cả cần và cá lên khoe với chúng tôi một cách hãnh diện, gỡ cá ra, sửa lại mồi, cho xuống nước tiếp… Nhã không hề để ý chúng tôi vừa chụp hình cậu bằng điện thoại di động. Ngón tay Nhã vừa ngắt mồi quệt ngang ống quần, rồi chống nạnh, tay trái cầm cần. Cần là một nhành tre thô. Như đoán được suy nghĩ, Nhã chủ động với chúng tôi: “Với loài cá bống dừa này thì mồi bằng con hà đỏ như thể là thuốc phiện ấy. Thường phải ngắt mồi bằng tay thì nó thích hơn. Giống như chúng ta thích các món dân dã được chế biến thủ công, để ngoài việc ăn thực phẩm thì còn thưởng thức tay nghề và tâm hồn khác nhau của người làm ra sản phẩm ấy. Người câu cá bống dừa mà sạch sẽ, tinh tươm thường câu được rất ít. Hình như, nó thích mồi của những người có mùi vị quyện lẫn giữa chất tanh của con hà, bùn và mồ hôi quần áo (?!)…”.
Tôi hỏi: “Anh câu đã lâu chưa mà có vẻ chuyên nghiệp vậy?”. Như “trúng đài” của Nhã: “Phải nói rằng “tiêu dao trời rộng sông dài” mới là chuyên nghiệp của chúng tôi! Thực ra, chúng tôi đi câu ở đây đều là nhà báo, nhà văn, kiến trúc sư, kỹ sư, doanh nhân, công chức và cả một số em sinh viên. Trước đây, công việc ngập mặt, làm gì có chuyện đi câu thế này. Hơn nửa năm qua, nền kinh tế sa sút, sản xuất kinh doanh nói chung của xã hội đình đốn; báo chí đứng đắn cũng không thoát ngoài quy luật, trừ những tờ báo không cần ra sạp thì ngày càng “sống phẻ”. Chúng tôi gần như không muốn làm gì nhiều vì có cảm giác càng làm càng bế tắc. Ăn nhậu với nguồn tin, với chiến hữu nhiều thì tốn tiền nên chúng tôi cùng quyết định câu cá bống dừa, vừa giúp cân bằng sinh thái cho loại cá này và các loài khác, vừa kiếm mồi nhậu với rượu nút lá chuối cho qua ngày. Chờ Hội Nghị Trung ương 7 và quy định công an được quyền truy nguồn tin nhà báo xong xuôi rồi… nghỉ làm việc luôn một thể. Câu bống dừa cũng là sự tập dượt cho những khoảng thời gian không báo chí của bọn tôi để tìm đường cứu… thân. Nhưng dù gì thì bọn tôi cũng không thể bỏ quên thú vui “tiêu dao trời rộng sông dài được”. Không tin, anh có thể hỏi anh Mạnh đang ngồi câu bên kia kìa”.
Theo tay Nhã chỉ, chúng tôi đến gần anh chàng chân đang vắt lên gốc dừa nước. Tay cầm cần nhưng có vẻ đang suy nghĩ gì lung lắm, chứ không tập trung câu cá như Nhã. Thấy chúng tôi lại, anh cười ngoác miệng, dơ hàm răng đen khói thuốc. Cặp mắt khi cười không rõ anh có nhìn thấy chúng tôi không (?). Được cái, anh nói chuyện phóng khoáng. Trong câu chuyện, Mạnh tỏ ra có chút khinh đời, ngang tàng với những kẻ anh cho là “ăn trên ngồi trốc”. Mạnh kể: “Tôi được đánh giá có chút năng khiếu thông tin, tường thuật trong mảng Nghị trường, họp Hội đồng nhân dân hoặc “đi hầu” anh Ba, anh Tư, chị Năm anh Bảy… về cơ sở làm việc. Đã đi đưa tin “vuốt đuôi” cho người ta nhưng mỗi lần lại phải qua mấy vòng kiểm tra, xin xỏ được vào, nhiều khi phát tiết. Đã vậy thì “bọ” không thèm nữa; “bọ” có cách của “bọ” là chơi thân với mấy đồng nghiệp Thông tấn xã, VTV, Phát Thanh và các báo khác. “Bọ” cứ đi câu cá và đàn đúm rồi “bọ” xin tài liệu, bọ hỏi nhiều “nguồn tin nhà báo” khác nhau thì “bọ” cũng có tin bài. Tiền nuôi gia đình, vợ “bọ” trang trải đủ nên tiền nhuận bút nhận ra, “bọ” lại mời chiến hữu đàn đúm. Nói thật là mảng này có cái dễ là phát biểu chỉ đạo của ông nào cũng có “khuôn” chung chung cả, đi riết, nghe riết thành quen nên chỉ cần chính xác thông tin cơ bản là có thể “múa” mà không sợ sai. Nhiều khi bài của tớ còn hay hơn bài của vài anh em nghe trực tiếp mới đểu chứ. Một điều nữa, tôi nói thật với mấy anh là tôi ghét cay, ghét đắng sự giả dối nhân nghĩa, đạo đức. Đôi lúc đi ra thấy một số đối tượng bản thân “thúi hoắc” lại còn ra giảng sự trong sáng, đạo đức nên chịu không nổi. Bởi vậy, trên FB của mình, tôi thường tự nhận là “tôi dâm tặc, tôi thích gái đẹp…” là để dạy cho những kẻ tham, sân, si vô độ nhưng khi nào cũng lãng tránh, lại rao giảng đạo đức… cần thiết phải biết liêm sĩ. Tôi cứ nói trắng ra rằng tôi có một vợ, một con rồi nhưng bây giờ có cô hoa hậu nào mà cho tôi “sờ tý” thì tôi đâu từ chối. Còn hơn khối kẻ thèm…, hoặc lén lút rồi nhưng không dám nhận, lại rao giảng về sự quan trọng của chế độ một vợ một chồng và sự xấu xa của những kẻ dâm ô, chung chạ. Đúng không nào?!…”. Đến đây, Mạnh lại có lẽ lại “không nhìn thấy chúng tôi nữa”.
Nói vậy chứ khi đề cập đến chuyện tương lai nghiêm túc, Mạnh tỏ ra chín chắn. Mạnh kể, ngoài làm báo, cách đây mấy năm có đầu tư vốn làm ăn với mấy anh em nhưng do chung chạ, không hiểu công việc nên thất bại. Trải qua bao năm lăn lộn, giờ mới thấy tự tin để mở gì đó làm ăn tiếp, chứ làm báo chân chính trong thời điểm hiện nay chỉ đủ nuôi thân là giỏi. Nhưng tình hình này thì có lẽ làm và chơi cầm hơi qua ngày có vẻ ổn hơn. Mạnh bảo có căn nhà ở quận 3, mọi năm có người năn nỉ với giá 175 cây vàng nhưng do chưa có hướng gì khả quan nên không bán. Nay, có hướng muốn bán để mua mấy ngàn m2 ở khu vực này chẳng hạn, còn lại có vốn làm ăn. Nhưng, khổ nỗi thị trường bất động sản đóng băng, nhà giờ bán khó, giá thì chắc hơn một nửa trước đây. Bán rồi, cầm tiền gửi ngân hàng thì không bằng tiền mất giá; mua vàng thì “ngàn cân treo sợi tóc” khi giá chênh lệch giữa vàng “ta” với vàng thế giới chưa từng có và thị trường vàng có dấu hiệu bất thường; mua chứng khoán chắc về cho con “làm giấy vẽ cho vui”; đầu tư sản xuất thì thấy ngành nào cũng đang ngáp ngáp, thu hẹp, mà mình lại bung ra làm là đi ngược lại “quy luật thị trường”. “Tốt nhất là chờ Hội Nghị Trung ương 7 và quy định công an được quyền truy nguồn tin nhà báo xong xuôi, chờ đồng chí ấy “ổn định kinh tế vĩ mô”; chờ kết luận xem có “nhóm lợi x” nào hiển hiện không; có thì họ sẽ nhường lại phần nho nhỏ nào đó thì cùng với bà con đầu tư tý chút kinh doanh kiếm lời phần đó. Trước mắt, câu bống dừa vừa tiết kiệm, vừa khỏi nặng đầu là giải pháp tạm ổn nhất!”. Mạnh kết luận.
Tiếng sòng sọc rít lên từ bên kia bờ rạch. Người trẻ mặc áo thun xanh, bụng hơi phệ đang ngồi bệt trên bờ rạch và phả khói vào không gian khoan khoái. Đó là nhà văn trẻ, nhà báo Thuận. Anh mang theo điếu cày khi đi câu cá. Chúng tôi lại, anh nâng chiếc cần câu lên. Tôi nhanh nhảu bảo “mất mồi”. Thuận bảo, không phải, từ nãy tới giờ anh “cho cá ăn mồi” chứ không dùng câu. Thuận cho biết: “Câu một hồi, tôi phát hiện có hai ổ cá con có kích thước khác nhau. Chúng tham mồi lắm. Bố mẹ chúng cũng tham mồi nhưng có “kinh nghiệm” nên kỹ hơn một chút. Tôi nghĩ câu bố mẹ chúng thì lũ con bơ vơ, mà câu con non trẻ thì cũng tội nghiệp nên cất lưỡi câu. Tôi cột mồi cho nó ăn được thế nào tốt thế đó và giật để “dạy” cho nó bài học thôi. Ấy thế mà hai “phe nhóm này” cũng tranh giành nhau dữ lắm. Nếu tôi chú tâm thì bắt hai ổ này không khó chút nào”.
Tôi hỏi đến cái điếu cày, Thuận giải thích: Sở dĩ anh hút điếu cày và đang tập cho bạn anh như Nhã, Mạnh… hút điếu cày vì kinh tế gia đình thế này hút thuốc lá vừa có hại sức khỏe, vừa có hại túi tiền. Nên để dành tiền đóng học cho con! Điếu cày vừa ít hại sức khỏe, vừa chỉ mất khoảng chục ngàn đồng mỗi tuần nên đỡ lắm. Hơn nữa, nhà nước vừa ban hành nghị định hạn chế hút thuốc lá, việc mua bán khó khăn, lại bị cấm nơi công cộng. “Cấm thuốc lá thì ta hút thuốc lào, vừa “nâng cao sĩ diện”, vừa không bị cấm đoán gì cả có tự do hơn không (?!). Tôi bảo anh em mỗi đứa sắm một cái điếu, đem bỏ phòng làm việc và nửa tiếng thì “réo ra, réo rắt” một vài phát, vừa vui tai lại không bị luật pháp cấm, vừa kinh tế…, có phải “nhất cử tam tứ tiện” không?”. Nhìn vậy mà Thuận biết hài ra phết…
Trời bỗng mưa nặng hạt. Ai cũng im lặng tập trung cho công việc giật lên, gắn mồi, bỏ câu xuống… Một hồi sau, tiếng anh chàng bên cạnh tôi cất lên: “Nghỉ thôi, nước xuống rồi, cá không ăn nữa đâu!”. Tôi hỏi: “Ủa, nước xuống là cá không ăn nữa à?”. Anh trả lời: “Đúng vậy! Khi nước lên, bùn kéo theo cả những phù sa theo và tất cả các loài ăn theo con nước, rồi cá bống dừa cũng theo đó mà bắt mồi. Khi nước xuống, anh thấy đấy, nước trong veo, các loài đã ăn no đủ rồi nên không ăn mồi nữa. Bây giờ, có lẽ đã no say nên chúng đang đàn đúm, kết bè phè phỡn đâu đó để sinh sôi nảy nở chứ không thèm mồi màng nữa. Chúng chỉ đói và tham ăn khi nước vẫn đục thôi”. Tôi hỏi lại: “Thế sao anh không thử khuấy cho nước đục rồi câu tiếp xem sao?”. Hơi bất ngờ, một phút định thần, anh trả lời: “Không! Bống dừa biết rõ là khi nước bắt đầu xuống thì dù chỗ nào đó đục cũng không còn thức ăn hấp dẫn nữa. Với lại, lúc này nó đã no rồi, không cần nữa!…”. 
Mọi người tập trung về một nhà gần đó rửa người, rửa cá thật sạch, bỏ nồi kho tiêu. Kiếm thêm vài trái xoài xanh, những thứ rau thơm khác trong vườn và cả lít rượu mà họ gọi là “nút lá chuối”. Chúng tôi cùng tham gia vui vẻ với mọi người. Thuận kể câu chuyện “tha” cho hai ổ cá, mọi người tỏ ra tiếc rẻ. Theo nhiều ý kiến, cá bống dừa mà câu theo phương pháp thủ công thế này ở con sống Tắc, quận 9 còn chưa bị ô nhiễm thì không bao giờ sợ hết, chỉ có thể quá nhiều làm mất cân bằng sinh thái đối với các loài khác mà thôi, vì nó ăn nhiều, ăn được nhiều loài khác nhau…
Ra về, ngà ngà say, Nhã lại ôm vai tôi nói nhiều lần: “Anh thấy bọn em có “tiêu dao trời rộng sông dài không? Anh thấy…”.
Đó chỉ là mới triết lý của mấy anh em làm báo. Còn những người khác?
Quả là một ngày vui!

Ảnh 1: Nhã Thuận đang câu cá
Ảnh 2: Mạnh câu một cách mông lung
Ảnh 3: Thuận với điếu thuốc lào.

Số phận 10 nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn sau 1975

Số phận của họ đi theo những ngả đường khác nhau, người ở lại đất nước và được trọng dụng, người ra đi và sống lặng lẽ nơi xứ người…

Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) là Tổng thống chế độ Sài Gòn từ 1967-1975. Đêm 25/4/1975, ông rời VN đi Đài Loan dưới danh nghĩa phúng điếu Tưởng Giới Thạch, rồi bay thẳng sang Anh định cư. Đầu thập kỷ 1990, ông Thiệu chuyển sang sống tại Foxborough, Massachusetts, Mỹ và sống một cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại ở đây. Ông qua đời ngày 29/9/2001, sau khi đột quỵ tại nhà riêng ở Foxborough, thọ 78 tuổi.
 
 Dương Văn Minh (1916-2001) là Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau năm 1975, ông sống tại TP Hồ Chí Minh, cho đến năm 1983 thì sang Pháp định cư. Nhưng ngay sau đó, ông lại chuyển sang California (Mỹ), sống với gia đình con gái. Ông qua đời ngày 6/8/2001, thọ 86 tuổi. Thời gian cuối đời, Ông Dương Văn Minh đã bày tỏ mong muốn được trở về quê hương và sống như một người dân Việt Nam bình thường.
 
 Trần Văn Hương (1902-1982) là cựu Thủ tướng (1964–1965; 1968–1969), phó tổng thống (1971-1975), rồi Tổng thống trong thời gian 7 ngày (21-28/4/1975) của chế độ Sài Gòn.  Sau 1975, ông chọn ở lại quê hương, tiếp tục sống ở căn nhà của mình ở Sài Gòn. Những năm tháng cuối đời, ông sống chung với em gái, em rể, và người con trai lớn là Lưu Vĩnh Châu – từng là một đại úy Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tham gia trận Điện Biên Phủ. Ông mất ngày 27/1/1982, hưởng thọ 80 tuổi.
 
Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) là một sĩ quan cao cấp và là cựu Thủ tướng và Phó Tổng thống của chế độ Sài Gòn. Năm 2004, ông đã về thăm quê hương trong tinh thần hòa giải dân tộc. Ông mất ngày 23/6 tại một bệnh viện ở Malaysia, thọ 81 tuổi.
 
 Nguyễn Xuân Oánh (1921–2003), là cựu Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân hàng, 2 lần là quyền Thủ tướng trong chính phủ Sài Gòn. Sau 1975, ông tiếp tục được chính quyền mới trọng dụng. Trong tiến trình Đổi mới cuối thập niên 1980, ông đã có đóng góp lớn vào việc cải cách các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài… tại VN. Ông từng là cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cũng là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN. Ông mất ngày 29/8/2003 tại TP HCM.
 
Vũ Văn Mẫu (1914-1998) là một chính trị gia kiêm học giả về ngành luật nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao rồi Thủ tướng của chế độ Sài Gòn. Sau 1975, ông ở lại VN trong một thời gian, rồi sau đó sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông Vũ Văn Mẫu mất ngày 20/8/1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.
 
 Nguyễn Hữu Có (1925-2012) là cựu Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng Quốc phòng và tổng tham mưu trưởng quân lực chính quyền Sài Gòn. Sau năm 1975, ông ở lại VN và phải đi cải tạo đến năm 1987. Tuy vậy, đến cuối năm 2004, ông được bầu làm Ủy viên UBTW Mặt trận Tổ quốc VN và được chính phủ VN xem như một biểu tượng của sự hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù của 30 năm chiến tranh. Ông mất tại TP HCM ngày 3/7/2012, hưởng thọ 87 tuổi. Trong ảnh là vợ chồng ông Nguyễn Hữu Có, chụp vào tháng 2.2012.
 
Trần Văn Đôn (1917-) là tướng lĩnh cao cấp của Quân lực Sài Gòn và là Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng trong nội các cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Vào ngày 29/4/1975, ông là một trong những người di tản trên chuyến trực thăng nổi tiếng của Mỹ xuất phát từ tầng thượng tòa nhà 22 phố Gia Long (nay là phố Lý Tự Trọng) ở Sài Gòn. Sau đó, ông sang Pháp định cư và sinh sống ở đó cho tới nay.
 
 Cao Văn Viên (1921-2008) là 1 trong 5 người được phong hàm đại tướng quân lực chế độ Sài Gòn. Ông là vị tướng giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975) và cũng là người cuối cùng giữ cương vị này của chế độ Sài Gòn. Năm 1975, trước các thất bại quân sự, ông từ nhiệm ngày 27/4 và lên máy bay di tản sang Mỹ. Sau 1975, ông sống lặng lẽ tại Arlington, Virginia. Ông mất ngày 22/1/2008 tại viện dưỡng lão, thọ 87 tuổi.
 
 Vương Văn Bắc (1927-2011) là một luật sư và Tổng trưởng Ngoại giao vào những năm cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Sau ngày 30/4/1975, ông sang Pháp định cư. Nhờ học vấn uyên thâm, ông được ngành luật của nước Pháp trọng dụng và làm việc cho đến năm 80 tuổi mới nghỉ ngơi. Ông mất ở Paris ngày 20/6/2011.
 
Theo Kiến thức

“Chính trị hóa” làm tê liệt xã hội

Theo BS. Nguyễn Quang Bình Tuy-BVN

 Nhân việc bàn về “phi chính trị hóa quân đội”, cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại hàng loạt vấn đề của xã hội hôm nay như đạo đức suy đồi, quá tải bệnh viện, giáo dục xuống cấp, thanh niên không có tay nghề lẫn kỹ năng làm việc, không thể tuyển người giỏi vô làm công chức… Có thể khẳng định, đó là do chúng ta “chính trị hóa” mọi mặt của đời sống xã hội. Chính trị hóa len lỏi tới mọi ngành nghề, mọi giới và mọi nơi. Chính trị hóa đã làm xơ cứng xã hội, làm tê liệt xã hội, khiến không ai dám nói thật vì sợ“phản động”, không ai dám làm vì sợ “làm trái ý lãnh đạo”, không ai dám sáng tạo vì sợ “lãnh đạo biết mình giỏi hơn”… Suy cho cùng, ai cũng phải căng thẳng, vắt óc suy nghĩ để nói gì và làm gì sao cho đẹp lòng lãnh đạo để mà sống vì miếng cơm manh áo. “Nói thật thì sợ mất lòng” nên đành phải… nói dối. Mà nói dối lâu ngày thành thói quen và trở thành bản chất của mình lúc nào không hay. Hậu quả là mọi người chỉ nói theo những gì lãnh đạo (cơ quan, tổ chức…) đã nói và muốn nghe. Những ai tồn tại và được thăng tiến được trong môi trường đó thì gần như chắc chắn cũng thuộc hàng “nịnh hót” và “miệng lưỡi đỡ tay chân” mà thôi. Mà người giỏi, người tài thì không ai thích làm chuyện đó cả, mà họ cần một lãnh đạo anh minh, biết tạo đất để họ dụng võ, phát huy hết khả năng của mình. Thế thì làm sao chúng ta có được người giỏi người tài, khi mà hiện nay tiêu chí xét thăng chức quản lý từ cấp thấp nhất là phó phòng, phó khoa của một bệnh viện bắt buộc phải là… đảng viên Đảng Cộng sản bất kể chuyên môn “có vấn đề”!

 Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: chiến tranh, bao cấp, đổi mới. Dễ nhận ra rằng, khi “chính trị hóa” càng rộng ra nhiều mặt của xã hội thì không khí càng “nghẹt thở” và càng trở nên “bí hiểm”. Trước đây, thời bao cấp do chính trị hóa cả lĩnh vực kinh tế nên hậu quả là ai cũng trở thành “tội phạm” vì bán các mặt hàng cơ bản như thực phẩm, hàng gia dụng… mặc dù chỉ đơn thuần là “làm để kiếm ăn”. Lúc đó chúng ta gọi một cách khinh miệt những người buôn bán là “bọn con buôn” và đổ hết những lý do làm kinh tế xáo trộn lên đầu họ. Sau khi mở cửa và “đổi mới”, chúng ta “thôi chính trị hóa” lĩnh vực kinh tế bằng cách dẹp bỏ chế độ tem phiếu và cửa hàng bách hóa, trả lại việc buôn bán cho dân nên kinh tế phát triển, có của ăn của để, và những người buôn bán được gọi một cách trìu mến là “thương nhân”, “doanh nhân”. Nói vậy không phải để bình phẩm đúng sai của lịch sử, nhưng để cho thấy cũng cùng một vấn đề, nhưng nếu nhìn dưới một lăng kính “chính trị” thì sẽ thấy đâu cũng là “kẻ thù”, cũng là “phản động”, nhưng nếu nhìn với lăng kính “dân sự” thì ai cũng có công đóng góp phát triển đất nước.

 Như vậy có bao nhiêu lĩnh vực nữa mà chúng ta đã gỡ bỏ thành công cái “vòng kim cô” “chính trị hóa” và trả nó về “dân sự”, và rồi nhận ra rằng “tại sao ta không gỡ nó sớm hơn, vì nó có hại gì đâu?”. Đơn cử một lĩnh vực nữa chúng ta đã làm được, đó là người dân được tự do đi nước ngoài, điều mà cách đây không lâu là “phạm pháp”, là “phản bội Tổ quốc”, thậm chí du kích được quyền bắn bỏ ngoài bãi biển bất kỳ ai “đi vượt biên” mà không cần xét xử. Thế rồi mở cửa… nhưng vẫn chưa mở hết với lĩnh vực này. Tôi nhớ cuối những năm 1990 đầu những năm 2000 muốn làm passport phải khai báo là “thất nghiệp” hoặc “lao động tự do”, chứ nếu khai là trí thức như bác sĩ, dược sĩ… thì không thể nào được cấp passport. Ngày nay thì mọi người đều có thể làm passport một cách tự do mà không cần có lý do, muốn đi nước nào thì đi, miễn nước đó nhận mình, kể cả “đế quốc Mỹ”. Vậy thực sự việc đi nước ngoài có quá nguy hiểm với chế độ, có “làm mất chế độ” như chúng ta từng lo sợ không? Ngược lại nữa là khác! Lượng kiều hối quay ngược lại để phát triển đất nước là một minh chứng thưc tế.

 Thử nhìn vào Bắc Triều Tiên xem lãnh đạo họ hành xử có bất thường không? Nếu trả lời “có”, tức là chúng ta đã thoát ra rồi, đang đứng ngoài nhìn vào họ. Nếu chúng ta đứng chung với họ thì sẽ trả lời là “không có gì bất thường”. Quay ngược lại thời bao cấp, hình ảnh của chúng ta trong con mắt của thế giới giống y như vậy, giống đến từng chi tiết nhỏ nhất. Giờ đây, chúng ta đang cố giữ thể chế “toàn trị”, cái mà thế giới phương Tây văn minh họ lên án rất nhiều vì nó làm khổ dân, làm suy yếu đất nước và khuyên chúng ta nên thay đổi để có lợi cho chính chúng ta, giúp chúng ta phát triển hơn, văn minh hơn, đồng thời bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tốt hơn. Vậy hãy thử dũng cảm “nhảy ra” khỏi cái vòng luẩn quẩn đó thì mới thấy chúng ta “đang bất thường”. Đừng cố thanh minh và biện minh làm gì, chỉ tốn thời gian và càng chứng tỏ mình “tham quyền cố vị” mà thôi. Muốn xem một trận bóng hay thì phải ngồi ở khán đài, chứ đâu ai đứng trong sân mà xem. Hãy thử đứng ở khán đài một lần để có cảm giác như thế nào là bình thường và bất thường.

 Quay sang Miến Điện, những cú xoay chuyển ngoạn mục của họ có làm họ suy yếu thêm không? Có làm họ “lệ thuộc Mỹ” không hay là thoát khỏi “gọng kìm Trung Quốc”? Có bị ai “giật dây” không? Dân họ sướng hơn hay khổ hơn sau cú chuyển xoay đó? Xã hội của họ có bị rối loạn không hay là dễ thở hơn nhiều? Với đà này, chỉ cần 10 năm nữa họ sẽ vượt qua mặt chúng ta ngay, chắc chắn là vậy. Phải nói ngay, Mỹ không có tham vọng lãnh thổ, không chiếm nước ta, trong khi Trung Quốc nhiều lần bành trướng xâm lược nước ta. Minh chứng cho điều này là chỉ khi Mỹ rút khỏi chiến tranh Việt Nam thì Trung Quốc mới dám khởi binh chiếm Hoàng Sa. Như vậy ai dã tâm thì đã biết rõ rồi.

 Các vấn nạn xã hội hôm nay mà chúng ta đang phải đối mặt đều có cùng một nguyên nhân là “chính trị hóa”. Do chính trị hóa nên nhiều lĩnh vực đáng lẽ thuộc dân sự, nhưng lại được tổ chức và vận hành mang màu sắc chính trị. Hậu quả là, các tiêu chí đánh giá tổ chức dân sự đó tốt hay xấu đáng lý ra phải dựa vào các tiêu chuẩn chuyên môn, nhưng lại dựa vào tiêu chí chính trị! Hãy thử phân tích từng quốc nạn sẽ rõ.

 1. Quá tải bệnh viện

 Tôi thấy trải qua bao đời Bộ trưởng Bộ Y tế, và với quyết tâm chính trị rất lớn là làm sao để giảm quá tải bệnh viện, nhưng đều thất bại. Kết quả là quá tải bệnh viện lớn, chuyên môn sâu ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn là vấn đề nhức nhối chưa có lời giải. Bộ trưởng nào lên cũng tìm một lý do để giải thích cho sự quá tải đó, nhưng tất cả đều là mệnh lệnh hành chánh và không thể thành công trong thực tiễn. Các giải pháp “ngăn sông cấm chợ” (khám bệnh theo tuyến, trái tuyến trả tiền cao hơn) đã từng làm và từng thất bại, nhưng nay lại tiếp tục đem ra làm, và chắc chắn sẽ thất bại tiếp. Sao không thử nghĩ, nếu con của Bộ trưởng bị bệnh nguy cấp trên đường đi công tác, Bộ trưởng có dám đưa con vô cấp cứu tại một bệnh viện tỉnh không, chưa nói đến bệnh viện huyện, hay là tức tốc về Sài Gòn hay Hà Nội để cứu chữa, hay thậm chí bay sang nước ngoài? Thế thì tại sao lại bắt người dân phải vô khám những nơi điều trị kém như vậy? Ngày càng có nhiều bệnh viện cấp tỉnh kém về chuyên môn, mặc dù có trang bị trang thiết bị hiện đại, thì người dân ngày càng kéo về thành phố lớn. Tại sao như vậy?

 Tại vì, không gì thay thế được con người cả. Nếu thay được, người ta đã chế tạo ra máy khám bệnh rồi, và không cần đào tạo bác sĩ làm chi cho tốn công, tốn tiền… Mà muốn có con người tốt thì phải được tổ chức tốt, thì mới thu hút được người giỏi ở lại và cống hiến hết mình. Chỉ cần có người giỏi làm việc thì không cần đầu tư máy móc hiện đại, cũng giải quyết nhiều vấn đề rồi. Mà muốn những người này ở lại làm, cách duy nhất là phải có lãnh đạo khoa, lãnh đạo bệnh viện giỏi, và…không cần là đảng viên!

 Người giỏi chuyên môn thì sẽ lấy tiêu chí chuyên môn ra để phấn đấu và để đánh giá nhân viên dưới quyền, kết quả là chuyên môn ngày càng cao và tăng uy tín cho bệnh viện. Còn người thăng tiến nhờ chính trị mà chuyên môn kém thì chắc chắn sẽ tập hợp quanh mình những người kém cỏi và khiến nhiều người giỏi và tâm huyết nghề nghiệp phải ra đi. Đó là chưa kể họ sẽ tham nhũng thông qua việc mua sắm thiết bị chất lượng kém với giá cao, bất chấp có ảnh hưởng tới hoạt động chuyên môn. Hiếm có người nào thăng tiến nhờ chính trị mà lại vừa giỏi chuyên môn. Tôi có bạn bè làm trưởng phó khoa, thậm chí giám đốc bệnh viện, họ tâm sự “vô Đảng cho có thôi, chứ mình chỉ thích làm chuyên môn”.

 Như vậy hăy trả tổ chức bệnh viện về “dân sự” và thay đổi tiêu chí đánh giá bệnh viện dựa trên uy tín của bệnh viện về chuyên môn với dân chúng. Chỉ cần 64 tỉnh thành có 64 bệnh viện tỉnh thực sự giỏi chuyên môn là đủ sức giảm tải cho bệnh viện ở hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Không ai muốn tốn tiền tốn bạc, ăn dầm nằm dề tại các bệnh viện thành phố, phải bỏ công ăn việc làm để nuôi bệnh cả.

 Tình hình hiện nay, chúng ta có dũng cảm “bỏ tiêu chuẩn đảng viên” trong lựa chọn giám đốc bệnh viện cũng như trưởng và phó khoa phòng không? Song song đó là thi tuyển giám đốc để chọn ra 64 giám đốc bệnh viện tỉnh giỏi, biết làm việc, có tâm với ngành. Chỉ cần vậy, trong vòng 5 năm sẽ xóa ngay tình trạng quá tải bệnh viện thành phố.

 2. Giáo dục xuống cấp và đạo đức suy đồi

 Giáo dục cũng tương tự, từ cấp tổ phó bộ môn trở lên phần lớn là đảng viên. Đó là chưa kể chương trình giáo dục chúng ta quá nặng nề về chính trị. Ngay cả dạy lịch sử, chúng ta cũng không khách quan, mà nặng tính chính trị, lồng ghép bình luận lịch sử theo quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản. Chính vì cách dạy lịch sử như vậy, nên không thể có lịch sử hay, không thể trách tại sao học sinh không biết lịch sử nước ta qua 4000 năm lịch sử hay tới mức nào. Ba tôi là Giáo sư dạy sử tiểu học thời chế độ Việt Nam Cộng hòa, chỉ cần nghe ông kể chuyện sử trong mỗi bữa ăn tôi cũng đã thuộc rồi, và thấy rất hay. Tôi biết tại sao có Trịnh-Nguyễn phân tranh, tại sao có dải đất phía Nam trù phú, tại sao ngoài Bắc có “con cả” nhưng trong Nam không có, mà bắt đầu là “con thứ Hai”, tại sao có áo dài Việt Nam, từ thời nào bắt đầu mặc quần hai ống, Huyền Trân Công Chúa có công như thế nào… rất rất và rất nhiều điều để nói.

 Đạo đức xuống cấp là do chúng ta không dạy học sinh cách ứng xử, cách xưng hô, thưa gởi như thế nào. Con tôi mới học lớp 1, nhưng nó đột nhiên hỏi tôi: “Ba, bộ Bác Hồ tốt lắm hả Ba?”. Tôi ngạc nhiên và thắc mắc, tại sao chuyện “đi thưa về trình” tôi lại phải nhắc mỗi ngày cả năm rồi mà nó vẫn quên hoài, có ông bà nội ngoại đến thăm thì phải nhắc nó liên tục để thưa, trong khi lại hỏi chuyện đó với một thái độ rất ngưỡng mộ! Tôi hỏi con “Vậy con biết Bác Hồ là ai không?”. Con trả lời “Dạ không. Nhưng Bác Hồ cho mình cơm ăn áo mặc, tốt lắm Ba”. Tới đó tôi cũng không biết nói gì hơn. Phải chi nhà trường dạy nó cách thưa Ba Mẹ đi học thì nói làm sao (“Thưa Ba Mẹ con đi học”) và cách trình khi về nhà như thế nào (“Thưa Ba Mẹ con đi học về”) và cách đứng nghiêm, khoanh tay, cúi đầu như thế nào và bắt các em thực tập tại lớp. Tôi đảm bảo chỉ cần có một lần như vậy, các em sẽ nhớ và làm theo ngay, vì các em rất nghe lời cô giáo, hơn cả ba mẹ. Những gì cô thầy dặn ở lớp, các em rất nghe theo, và về nhà đòi cho bằng được. Điển hình là đòi quà sinh nhật bạn trong lớp, tối 9-10 giờ phải đi mua cho bằng được, không thì không dám đi học nữa?!

 Thiết nghĩ, mỗi lứa tuổi các em sẽ thường gặp những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Làm sao để các em biết ứng xử trong hoàn cảnh đó, biết phát hiện tình huống nguy hiểm và biết cách thoát ra bằng cách nào. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ để giảm đi rất nhiều tình huống bi thương như nạn hiếp dâm trẻ em, mà người phạm tội lại chính là những người thân hay lại chính là thầy giáo như đã thấy. Đừng dạy quá nhiều chính trị, triết học suốt cả 12 năm học, rồi lên Đại học cũng dạy tiếp tục, mặc dù cả người dạy và người học đều biết rõ nó vô bổ và phi thực tế, nhưng lại là cái “cần câu cơm” cho các giáo viên dạy các môn đó.

 Người nước ngoài họ không khinh ta nghèo hay giàu, mà chỉ khinh ta không biết cách ứng xử nơi công cộng. Ngay cả chúng ta với nhau, cũng đôi lúc thốt ra câu này “giàu mà hành xử chẳng ra gì”. Vậy hãy dạy các em đừng hành xử “chẳng ra gì” như vậy, để các em “thành người”. Không có gì khó cả, chỉ cần dựa vào nhu cầu sống hàng ngày, các em lứa tuổi đó thì dạy gì để sống với cộng đồng.

 – Tiểu học: dạy đi thưa về trình, yêu quý ông bà cha mẹ thể hiện như thế nào, cách chào khách khi có khách tới nhà, cách giữ vệ sinh bản thân.

 – Trung học cơ sở: giáo dục giới tính, nhận diện những tình huống nguy hiểm cho giới tính và cách thoát ra, cách đi đường, cách ứng xử nơi công cộng (nói nhỏ, nhường người lớn tuổi và phụ nữ, xếp hàng, đón xe buýt…)

 – Trung học phổ thông (cấp 3): cách thuyết trình, nói chuyện trước đám đông, cách giao tiếp ngoài xã hội, cách nói chuyện với người nước ngoài, cách ứng xử với bạn bè cùng phái và khác phái, hậu quả cho bé gái của việc quan hệ tính dục khi chưa đủ tuổi trưởng thành, tình yêu trong sáng…

 Nhân cách con người hình thành qua các cách hành xử hàng ngày, lâu dần thành thói quen và trở thành bản chất của một con người, thông qua quá trình sống ở gia đình và học ở trường. Nhà trường có tác động rất lớn tới việc hoàn thiện nhân cách của trẻ. Do đó phải dạy trẻ, mà không chỉ dạy, mà phải uốn nắn từng chi tiết, để làm sao trẻ thực tập được, ứng xử như một người văn minh, có văn hóa, gọi là “có học thức”. Điều đó cần cả nội dung hay, giáo trình hấp dẫn, cách dạy có phương pháp, lẫn người thầy gương mẫu.

 Khó để có người thầy như vậy trong xã hội ngày nay, nhưng nếu không bắt đầu thì sẽ mai một dần, sẽ hết dần những người có tâm huyết với giáo dục, chỉ còn lại những người toan tính về chính trị thì sẽ mất đi cái “đậm đà bản sắc văn hóa” mà chúng ta treo nhan nhản ở mỗi trường học. Nhưng cái bản sắc đó là gì, thì chưa chắc ông Bộ trưởng biết mô tả cụ thể, nói chi đến đưa ra chiến lược rồi triển khai thực tế, là khoảng cách rất xa.

 Hãy trả giáo dục về dân sự, sức sáng tạo mạnh mẽ của người Việt sẽ làm nên những điều kỳ diệu mà không cần phải tốn nhiều thời gian, không cần phải “nhập khẩu” chương trình giáo dục, cũng không cần mời chuyên gia nước ngoài nào cả. Chỉ cần “phi chính trị hóa” nền giáo dục, để từng người hiến kế mà không bị quy chụp, không bị cho là phản động.

 3. Không thể tuyển người giỏi làm công chức

 Các ngành như Hải quan, Thuế, cơ quan nhà nước… thì đâu cần phải chính trị hóa. Làm công chức đâu nhất thiết phải theo Đảng Cộng sản hay bất kỳ một đảng nào khác? Việc chính trị hóa làm cho các công chức “tưởng mình là ngon” nên cứ “vênh vênh” và la ó chửi bới người dân rất khó coi. Chưa kể ăn cắp giờ công để làm việc riêng, tạo nên sức ỳ cho nền hành chánh nước nhà.

 Các cơ quan làm công việc hành chánh cần chuyển về dân sự, không cần tuyển dụng dựa vào “lý lịch tốt” mà bỏ qua các yếu tố chuyên môn giỏi. Việc thăng chức cũng dựa vào chuyên môn, chứ không dựa vào lý lịch và đảng viên, sẽ loại bỏ những thái độ hống hách đặc quyền hiện nay. Lúc đó chính quyền sẽ trở nên thân thiện hơn với dân, mọi người sẽ làm việc theo chuyên môn, theo luật chứ không theo bất kỳ một mệnh lệnh chính trị nào khác.

 Khi “dân sự hóa” các cơ quan hành chánh, một người công chức sẽ thấy trách nhiệm mình lên cao, phải làm gì để xứng đáng với vị trí đó, nếu vi phạm thì vẫn bị đuổi việc nghiêm khắc bởi người trực tiếp quản lý thì thái độ sẽ tốt hơn nhiều, bởi lúc đó họ biết rằng không còn chỗ dựa nào khác ngoài sếp trực tiếp của mình. Khi người công chức thấy người quản lý của mình xử lý anh minh, có chuyên môn cao, xử lý tình huống tốt và đáng để học hỏi, tự động anh ta sẽ phải làm việc hết mình và không dám chểnh mảng.

 4. Báo chí và truyền thông không dám nói thật

 Khi thông tin bị kiểm soát bằng chính trị, chứ không phải bằng luật thì không ai dám nói thật. Báo chí không tự do, không thể tạo ra tranh luận để tránh sai lầm đáng tiếc. Một vấn đề càng được tranh luận nhiều chiều, nó sẽ càng đi tới đồng thuận và thiệt hại do sai lầm khi triển khai càng thấp. Đó là mặt tích cực của báo chí cần phải được nhìn nhận. Có thể xem các điển hình của sự tranh luận là hầm Thủ Thiêm, dự án bô-xít Tân Rai, dự án tàu cao tốc Bắc-Nam…

 Khi mọi phát biểu đều phải “rào trước đón sau”, đều sợ “phạm thượng” thì sẽ không có góp ý chân thành, không có lời nói thật để nghe, và chắc chắn sẽ lạc lối.

 Sự tranh luận tự do sẽ làm cho vấn đề trở nên khách quan và ngày càng sát thực tế. Nhu cầu đó chắc chắn một xã hội nào cũng cần. Nhưng nếu bị “chính trị hóa” như hiện nay, ai cũng sợ bị chụp mũ, bị ghép tội, thì chẳng ai dám nói thật, vì nói thật chỉ “rước họa vào thân” mà thôi.

 5. Nghệ thuật không có tác phẩm hay

 Chúng ta hay than vãn vì sao ngày càng không có tác phẩm nghệ thuật hay. Câu trả lời là, nó phụ thuộc với mức siết và kiểm duyệt vì mục đích chính trị. Người nhạc sĩ, thi hào, văn hào, nghệ sĩ… chỉ có thể cống hiến những tác phẩm hay nhất khi họ đạt được sự rung cảm cao nhất khi sáng tác, thể hiện… Lúc đó, họ sẽ cảm thấy “mình ở trong đó” và nói lên hết những gì từ đáy lòng. Việc kiểm duyệt làm họ nhụt chí và không còn sáng tạo nữa. Sáng tác nhiều lúc là ngẫu hứng chứ đâu phải “theo giờ giấc” được.

 Sự tự do nói lên những suy nghĩ của họ sẽ tạo nên những tác phẩm bất hủ vượt thời gian.

 6. Không dám bỏ tiền ra để làm ăn

 Khi mà “kinh tế Nhà nước là chủ đạo” thì không ai dám bỏ tiền ra làm ăn cả, vì sợ một ngày nào đó “mất trắng”. Ngành nghề nào Nhà nước cũng “chủ đạo” cả, từ thu mua xuất khẩu nông sản cho tới dịch vụ hàng không, đóng tàu… đều có công ty Nhà nước. Khó có một lĩnh mực nào mà Nhà nước không nhảy vào. Nếu “muốn sống” thì phải “né” mấy ngành đó hoặc phải “có ai chống lưng” hoặc phải là doanh nghiệp nước ngoài (vì không dám “đụng”). Kết quả là ai cũng thấy, các ngành “mũi nhọn, xương sống” đều bị gãy, đều thua kém các doanh nghiệp nước ngoài, hoặc thậm chí có doanh nghiệp nhà nước chỉ làm thuê cho công ty nước ngoài đội lốt để nhận lấy vài phần trăm ít ỏi. Trong khi, dân có thể tự làm và thậm chí có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trong nhiều lĩnh vực.

 Nếu chúng ta “dân sự hóa” nền kinh tế, trả về cho dân tự làm tất cả các ngành nghề và họ sẽ cạnh tranh nhau để tồn tại, thì sẽ rất tốt cho xã hội. Nhà nước chỉ giữ những ngành chiến lược hoặc chỉ làm những ngành mà dân không làm như công nghiệp quốc phòng, dịch vụ công ích… Thu nhập của Nhà nước không phải từ các công ty Nhà nước, mà từ việc thu thuế. Chính sách thuế thấp nhưng công bằng, quản lý tốt, sẽ làm tăng ngân sách chứ không giảm. Là một người dân, khi đóng thuế thấp và phải chăng, ai cũng ý thức để đóng, thu đủ 100%, còn hơn là đặt mức thu quá cao rồi thất thu nhiều do trốn thuế. Khi người dân thấy nghĩa vụ của mình phải nộp thuế để phát triển đất nước, thì khi đó họ cũng thấy yêu nước hơn.

 Nhà nước chỉ nên tập trung xây dựng bộ luật hoàn chỉnh, công bằng cho tất cả mọi người, chứ không nên ưu ái cho bất kỳ doanh nghiệp nào, kể cả doanh nghiệp nước ngoài. Khi chính sách rõ ràng, ưu tiên cho doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực chiến lược do Nhà nước đề ra, sẽ được ưu tiên thuế thấp. Không nên ôm đồm lập ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước để rồi mất kiểm soát dòng tiền Nhà nước đầu tư, tạo ra hệ lụy rất lớn cho xã hội, mà khó có thể giải quyết ngày một ngày hai.

Chúng ta hay nói “vàng trữ trong dân rất lớn” nhưng chặn hết ngõ đầu tư: chứng khoán, đô la, vàng, bất động sản… nếu dân có tiền thì đầu tư vào cái gì? Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, chưa có lối thoát, lại bàn chuyện giải cứu. Sao không mạnh dạn bán hết các doanh nghiệp đó cho dân? Khi nhà nước cam kết “không quốc hữu hóa” và “tôn trọng và đảm bảo vĩnh viễn quyền sở hữu tư nhân” trong Hiến pháp (chứ không phải Sở hữu Nhà nước là chủ đạo như hiện nay) thì tôi dám chắc không phải nặng đầu để suy nghĩ “giải quyết” các bài toán doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ. Lúc đó đâu cần phải dùng mọi biện pháp như Ngân hàng Nhà nước làm hiện nay để “huy động vàng trong dân”? Nhưng rồi có huy động được không, cho tới thời điểm này?

N.Q.B.T.